Làm gì để tăng giá trị hạt gạo và thu nhập của người trồng lúa gạo ở Việt Nam hiện nay?

PGS.TS Vũ Trọng Khải

Chuyên gia độc lập về Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 

Tuy Việt Nam đã xuất khẩu gạo liên tục trong 25 năm qua, với khối lượng ngày một tăng, đứng hạng nhất, nhì thế giới, nhưng càng xuất khẩu nhiều, hiệu quả kinh tế và thu nhập của người trồng lúa càng giảm, nhất là người trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa chiếm 90-95% sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm của cả nước (theo điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp – nông thôn được công bố ngày 17/10/2013, thu nhập của nông dân trồng lúa ở ĐBSCL chỉ có 535.000 đồng/người/tháng).

Bởi vì, về cơ bản, nền nông nghiệp nói chung và ngành sản xuất lúa gạo nói riêng, vẫn là nền sản xuất hàng hóa nhỏ, manh mún, nông dân làm ăn theo kinh nghiệm cha truyền con nối với kỹ thuật canh tác lạc hậu; thương mại lúa gạo gắn liền với thương lái mua gom, nông dân bán “mão”, theo kiểu buôn chuyến, có gì bán nấy, có khách mua thì đi mua gom “tạp pí lù” đủ các loại lúa gạo. Công nghệ chế biến gạo theo quy trình ngược, xay xát lúa ướt rồi mới sấy khô gạo, nên chất lượng gạo xấu, giá thành chế biến lại cao, do tỉ lệ thu hồi thấp. Sự độc quyền xuất khẩu gạo của Hiệp hội Lúa gạo (VFA) mà thực chất là độc quyền xuất khẩu của Tổng Công ty Lương thực (Vinafood) đã làm trầm trọng thêm tình trạng buôn bán theo kiểu ăn xổi, chộp giật, “đánh quả”. Đặc biệt, cách buôn bán này luôn luôn đặt nông dân trồng lúa ở thế yếu, chịu thiệt thòi, nhất là khi giá gạo trên thị trường thế giới xuống thấp.

Vì vậy, vấn đề được đặt ra là bằng chính sách nhà nước và hệ thống quản lý nào để gia tăng giá trị hạt gạo, bảo vệ và gia tăng lợi ích chính đáng của người trồng lúa?

Gần đây, người ta nói nhiều đến “Tái cơ cấu nông nghiệp”, trong đó có ngành lúa gạo, như là giải pháp căn bản, toàn diện để xử lý vấn đề nêu trên.

Tái cơ cấu (cấu trúc) chỉ là cách sắp xếp lại các yếu tố cấu thành hiện hữu của một hệ thống nào đó (ở đây là ngành hàng lúa gạo) để hy vọng nâng cao hiệu quả hoạt động của nó. Nhưng trong ngành lúa gạo (và cả ngành nông nghiệp) nước ta hiện nay, các yếu tố cấu thành đã không còn “dư địa” để gia tăng hiệu quả, dù được sắp xếp lại theo bất kỳ kiểu cấu trúc nào. Vì các yếu tố cấu thành hiện hữu vẫn là nông dân sản xuất quy mô nhỏ, manh mún, sản xuất với kỹ thuật canh tác lạc hậu, vẫn là thương lái mua gom, buôn chuyến, vẫn là công nghệ chế biến lạc hậu theo quy trình ngược, xuất khẩu tuy nhiều nhưng vẫn không thể có thương hiệu, chất lượng gạo thấp và không ổn định, giá bán thấp.Vì thế, để có lãi, các doanh nghiệp xuất khẩu của VFA và thương lái mua gom lúa, các cơ sở sơ chế lúa thành gạo nguyên liệu, chỉ còn cách duy nhất là đồng lòng cùng ép giá mua lúa của nông dân.

Vì vậy, phải xây dựng lại hệ thống ngành hàng sản xuất – kinh doanh lúa gạo. Một ngôi nhà tranh, vách đất, dù được thiết kế kiến trúc đẹp, thi công có chất lượng cao, không bao giờ có thể “tái cấu trúc” thành nhà cao tầng. Muốn có nhà cao tầng, nhất thiết phải phá nhà tranh, vách đất, để xây dựng lại bằng cách thiết kế, thi công lại từ nền móng đến cột, xà, tường bằng xi măng, thép…, gạch tuy-nen, và sử dụng vật liệu nội thất mới. Tức là phải tạo ra các yếu tố mới, cấu thành nên chỉnh thể (hệ thống) mới (ở đây là ngành sản xuất – kinh doanh lúa gạo) theo một kiểu cấu trúc hợp lý, được vận hành theo một cơ chế quản lý tương thích, dựa theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường, sao cho tạo ra những thuộc tính mới về chất (hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của ngành sản xuất – kinh doanh lúa gạo), không thể tìm thấy ở các yếu tố cấu thành, và càng không thể tìm thấy ở chính thể (hệ thống) cũ (ngành sản xuất lúa gạo nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu).

Vậy phải làm thế nào để xây dựng lại ngành sản xuất – kinh doanh lúa gạo của Việt Nam hiện nay?

1. Tạo ra những yếu tố cấu thành mới của hệ thống ngành hàng lúa gạo

1.1. Nông dân

–       Nông dân phải là người chủ trang trại gia đình sản xuất lúa gạo hàng hóa, quy mô lớn, nhờ tích tụ ruộng đất, cơ giới hóa sản xuất, áp dụng công nghệ canh tác tiên tiến, từ khâu giống đến quá trình canh tác, thu hoạch, sơ chế, bảo quản theo tiêu chuẩn và quy trình “GLOBAL GAP”. Nhờ đó, chất lượng lúa gạo được nâng cao và đồng đều, ổn định, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.

–       Nông dân sản xuất hàng hóa lớn mới có nhu cầu và khả năng liên kết dọc với các doanh nghiệp chế biến, bảo quản,tiêu thụ lúa gạo, với tư cách là một chủ thể có vị thế bình đẳng với các chủ thể khác trong chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo,từ trang trại đế bàn ăn (hay mạn tàu xuất khẩu gạo).

–       Nông dân sản xuất hàng hóa lớn phải là nông dân chuyên nghiệp được đào tạo trở thành những chủ trang trại sản xuất hàng hóa lớn. “Thanh nông tri điền” phải thay thế cho “Lão nông tri điền”.

Khi tham gia mối liên kết này, chỉ những nông dân sản xuất lúa gạo hàng hóa lon mới cần và có thể giữ “chữ tín”trong các hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ở cả “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất.

1.2.  Hợp tác xã

Nông dân sản xuất hàng hóa lớn mới có nhu cầu và khả năng thực hiện liên kết ngang, tạo lập các hợp tác xã đích thực để làm dịch vụ đầu vào – đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, liên kết với các doanh nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ gạo trên thị trường trong và ngoài nước.

Trong giai đoạn đầu, hợp tác xã có vai trò cầu nối liên kết giữ nông dân trồng lúa và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ lúa gạo.Trong giai đoạn phát triển cao, hợp tác xã sẽ có nhà máy sấy, chế biến, kho chứa, tiêu thụ lúa gạo của nông dân xã viên, với tư cách là đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp.

1.3. Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ lúa gạo

–       Các doanh nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ lúa gạo phải được trang bị công nghệ tiên tiến, đồng thời phải trở thành “nhạc trưởng” trong chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo, tổ chức lại nền sản xuất của nông dân theo hướng hiện đại.

–       Các doanh nghiệp chế biến, bảo quản tiêu thụ lúa gạo cũng chỉ có thể và cần liên kết với các nông dân sản xuất hàng hóa lớn, tuân thủ tiêu chuẩn “GLOBAL GAP”.

Các doanh nghiệp này không thể ký hợp đồng với hàng chục vạn hộ nông dân sản xuất nhỏ để tạo ra các cánh đồng lớn “liền đồng, cùng trà giống, khác chủ”.

2. Hình thành và phát triển hệ thống sản xuất – kinh doanh lúa gạo

Trong hệ thống này, chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo được xác lập với vai trò” nhạc trưởng” của doanh nghiệp trong tổ chức lại sản xuất lúa gạo theo hợp đồng (không phải hợp đồng sản xuất), thể hiện qua các hoạt động sau:

–       Cung cấp đủ giống xác nhận cho nông dân phù hợp với yêu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái của từng tiểu vùng.

–       Hướng dẫn nông dân sản xuất theo “GLOBAL GAP”, nhờ đội ngũ cán bộ khuyến nông ba cùng với nông dân: cùng ăn, cùng ở, cùng làm.

–       Trực tiếp hay gián tiếp (liên kết với các đối tác khác) cung cấp vật tư (giống lúa xác nhận, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…) cho nông dân.

–       Bao tiêu lúa gạo hàng hóa của nông dân với giá cả đảm bảo phân chia lợi ích hợp lý giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp.

–       Có thiết bị và công nghệ hiện đại trong bảo quản, sấy, chế biến, tạo ra các loại sản phẩm gạo chế biến đa dạng theo yêu cầu của khách hàng với nhiều phân khúc thị trường khác nhau.

–       Liên kết với ngân hàng thương mại để cung ứng tín dụng cho nông dân và hợp tác xã của họ thông qua việc ứng trước giống lúa và vật tư nông nghiệp.

–       Xây dựng được thương hiệu lúa gạo của từng doanh nghiệp, từng loại sản phẩm gạo cho các loại thị trường,tổ chức kênh phân phối rộng khắp, để chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước.

–       Liên kết với các nhà khoa học ở các viện, trường để giải quyết các vấn đề khoa hoc – công nghệ sản xuất và quản lý nảy sinh trong tất các khâu của chuỗi giá trị ngành lúa gạo, từ tạo giống, xác định cơ cấu mùa vụ, máy móc và kỹ thuật canh tác, thiết bị và công nghệ bảo quản, chế biến, đến quản lý chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu, nghiên cứu thị trường, xây dựng chiến lược sản phẩm, tổ chức kênh phân phối, cơ chế phân chia lợi ích giữa các chủ thể tham gia chuỗi, trước hết là giữ nhà nông và nhà doanh nghiệp…

Trên cơ sở đó, các hệ thống quản lý chuỗi giá trị ngành lúa gạo được hình thành và phát triển trên các vùng sinh thái chuyên sản xuất lúa gạo hàng hóa, phát huy được lợi thế so sánh của mỗi tiểu vùng sinh thái, gia tăng hiệu quả kinh tế của tất cả các chủ thể tham gia,tăng thu nhập của nông dân trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và chiếm lĩnh thị trường lúa gạo thế giới.

3. Nhà nước kiến tạo phát triển hệ thống quản lý chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo:

Nhà nước cần tạo lập khung pháp lý minh bạch, thuận lợi và các chính sách khuyến khích phát triển các trang trại gia đình sản xuất lúa gạo hàng hóa lớn, các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ lúa gạo, và cả hệ thống quản lý chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo trên mỗi vùng sinh thái:

–       Tạo lập khung pháp lý cho việc phát triển thị trường mua bán quyền sử dụng ruộng đất một cách lành mạnh, minh bạch, thuận tiện, để tạo ra các trang trại gia đình sản xuất lúa gạo hàng hóa lớn.

–       Có chính sách đào tạo miễn phí cho thanh niên nông dân để tạo ra đội ngũ nông dân chuyên nghiệp “thanh nông tri điền”, có trình độ, kỹ năng quản lý trang trại và hợp tác xã của mình, tham gia bình đẳng với các chủ thể khác trong chuỗi ngành lúa gạo.

–       Chính sách tài trợ vốn và lãi suất tín dụng, giảm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, tài trợ kinh phí khuyến nông cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, kho bảo quản lúa gạo hiện đại và đứng ra tổ chức chuỗi giá trị lúa gạo, tạo ra cánh đồng liên kết lớn có lượng hang hoa ổn định ở mỗi tiểu vùng sinh thái.

–       Tài trợ kinh phí cho các đề tài khoa học nghiên cứu phục vụ cho phát triển chuỗi giá trị sản xuất – kinh doanh lúa gạo.

–       Xây dựng chiến lược và chính sách tạo dựng các khu đô thị nhỏ, (khu công nghiệp – dịch vụ và dân sinh), phân tán ở các vùng nông nghiệp sinh thái để vừa thu hút sức lao động nông nghiệp dôi dư, vừa tạo ra các cơ sở dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, hạn chế di dân tự phát vào các khu đô thị lớn như hiện nay đã làm nảy sinh những vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường không thể khắc phục được; xác định các vùng sinh thái phù hợp nhất với sản xuất lúa gạo được hưởng các chính sách ưu đãi nói trên.

–       Chính sách đào tạo nghề cho nông dân chuyển đổi nghề nghiệp, tạo dựng kế sinh nhai mới, ổn định cho họ ở các đô thị mới, nằm rải rác trong các vùng nông nghiệp sinh thái.

–       Xóa bỏ mọi ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước nói chung và Vinafood nói riêng, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại. Chính sách nhà nước không phân biệt đối xử theo chủ thể kinh doanh mà theo ngành hàng và vùng kinh tế sinh thái. Cần xóa bỏ vai trò như là cánh tay nhà nước nối dài của VFA. Trên cơ sở đó, cơ chế xin – cho mới được xóa bỏ.

Trên đây chính là nội dung xây dựng lại ngành hàng lúa gạo Việt Nam, theo quan điểm hệ thống với chuỗi giá trị, từ trang trại đến bàn ăn (hay mạn tàu xuất khẩu), bao gồm các yếu tố mới về chất, để tạo ra một ngành kinh doanh hiện đại, hiệu quả, nâng cao thu nhập, lợi ích của xã hội và các chủ thể tham gia, đồng thời có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng ./.

5/2014

V. T. K.

Tác giả gửi BVN.

This entry was posted in kinh tế, Nông Thôn. Bookmark the permalink.