Chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ 1954. Từ trái qua: Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng tôi xin trích đăng một số đoạn tiêu biểu trong tác phẩm Tại sao Điện Biên Phủ? Của nhà báo quen biết Lê Phú Khải. Mời quý vị chú ý đón xem BVN
Những ai chưa có dịp tìm hiểu, đến nay vẫn đặt một câu hỏi: Vì sao hai bên Việt Minh và Pháp lại chọn một nơi không hẹn trước, xa xôi hẻo lánh, tít mù cuối trời Tây Bắc, giáp ranh với nước Lào, làm trận địa cho một cuộc chiến quyết định sống còn với mỗi bên?!
Nhà văn hóa nổi danh Nguyễn Khắc Viện, trong cuốn sách được tái bản nhiều lần “Kể chuyện đất nước”, phần nói về Tây Bắc và Điện Biên Phủ cũng phải thốt lên: “Từ trên máy bay nhìn xuống, người ta tự hỏi: Không hiểu vì sao Navarre, một trong những tướng tài ba nhất nước của nước Pháp lại đem quân mình nhốt vào cái “chậu” (tiếng Pháp là cuvette) bốn bề bịt kín thế này. Đúng, từ máy bay nhìn xuống đồng bằng Mường Thanh với căn cứ Điện Biên Phủ quả là một cái chậu bốn bề núi cao, vào đấy là hết đường thoát”.
Nhưng nếu đi đường bộ, với cảnh đèo cao suối sâu, đường một bên, vực thẳm một bên… vác được 30 kg gạo lên đến chiến trường thì người dân công hỏa tuyến đã ăn hết 29 kg (!), chỉ còn để lại cho bộ đội được 1 kg! Sau đó thì phải tự kiếm ăn dọc đường mà đi về (!). Lúc đó lại có người hỏi: “Vì sao tướng Giáp lại dẫn những đơn vị chủ lực của mình từ xa xôi đến đây để giao tranh trong hoàn cảnh vô cùng không thuận lợi?” (NKV).
Cái gì cũng có giá của nó. Và, lịch sử có logic của lịch sử.
Chúng ta hãy tìm hiểu “Kế hoạch Navarre” và tình hình chiến sự Đông – Xuân 1953 – 1954 để trả lời được những câu hỏi trên.
Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), đến Đông Xuân 53 – 54 đã lớn mạnh, bao gồm 7 đại đoàn chính quy (Đại đoàn 312, 316, 308, 351, 325, 320, 304), 18 trung đoàn và 19 tiểu đoàn trên toàn quốc. Những đơn vị này vẫn đơn thuần là bộ binh. Ngoài ra, ta còn có 2 trung đoàn, 8 tiểu doàn và 4 đại đội pháo binh. Một trung đoàn và 2 tiểu đoàn pháo phòng không. Bên cạnh bộ đội chủ lực và địa phương quân ta còn khoảng 2 triệu dân quân du kích. Các đơn vị vũ trang của ta chủ yếu mới đánh địch ở vùng núi vào ban đêm, tập trung sức mạnh đánh vào chỗ yếu của địch rồi rút lui bảo toàn lực lượng. Trong chiến dịch Tây Bắc 1952, hai đại đoàn của ta vẫn không giành được thắng lợi trọn vẹn khi phải “nhổ” một tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Nà Sản (nhỏ hơn nhiều so với tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này).
Về phía địch, trước khi vào mùa khô 1953-1954, tổng số quân địch là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 229.000 quân bản xứ; so với tổng số quân của ta là 252.000 người. Như vậy so sánh lực lượng về quân số, địch vượt ta khá xa. Địch còn có pháo binh (25 tiểu đoàn), không quân (580 máy bay), 391 tàu chiến, không kể quân bản xứ đánh thuê có 25 máy bay và 104 tàu chiến loại nhỏ và 3 tàu ngư lôi.
Trên chiến trường chính Bắc bộ, ta chưa thể đánh xuống đồng bằng, nơi địch có sẵn thế trận và sức mạnh của pháo binh, của không quân mà ta chưa có khả năng hạn chế.
Một điều cần được nói rõ, và chỉ đến bây giờ, với đầy đủ tư liệu lịch sử chúng ta mới nhìn nhận sáng tỏ rằng, sau thế chiến II, Mỹ không ủng hộ Pháp quay lại Đông Dương áp đặt chủ nghĩa thực dân cũ. Thậm chí còn gây khó khăn cho Pháp trở lại Đông Dương. Nhưng khi nổ ra chiến tranh Triều Tiên 1950, Mỹ thay đổi chiến lược ở Châu Á, quay lại hỗ trợ Pháp trong chiến tranh Việt Nam vì sợ làn sóng Đỏ tràn ngập Châu Á. Tuy nhiên, cho dù Mỹ có giúp sức Pháp (73% chi phí chiến tranh Đông Dương) thì cả Mỹ và Pháp đều nhận thấy không thể giành thắng lợi quân sự ở Việt Nam để kết thúc chiến tranh lúc này, mà chỉ giành một chiến thắng quân sự quyết định, để buộc ta phải đàm phán kết thúc chiến tranh theo những điều kiện họ đặt ra.
Tháng 5/1953 Pháp cử tướng Henri Navarre sang thay thế cho Raoul Salan, người không có khả năng “giành một chiến thắng quân sự quyết định” cho nước Pháp!
Từ khi bắt đầu chiến tranh, Pháp đã 7 lần bổ nhiệm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh tại Đông Dương. Henri Navarre là tướng bốn sao, 55 tuổi, nguyên tham mưu trưởng lục quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương, đã từng chỉ huy một sư đoàn thiết giáp và được báo chí phương Tây ca ngợi là một “danh tướng” có thể “uốn nắn lại tình hình Đông Dương”!
Chỉ sau hơn 1 tháng nghiên cứu tình hình, ngày 3/7/1953 Navarre trở lại Paris và đệ trình Hội đồng tham mưu trưởng và Hội đồng quốc phòng tối cao Pháp một kế hoạch giành chiến thắng trong 2 năm. Kế hoạch Navarre được Mỹ tán thành. Kế hoạch phải chi ít nhất 100 tỷ France. Một con số quá lớn! Người ta đã bàn đến việc “nên bớt cho Navarre nhiệm vụ bảo vệ nước Lào trong kế hoạch”. Điều này theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có liên quan đến trận Điện Biên Phủ, và đã làm tốn giấy mực sau này!
Nhờ cơ quan tình báo Trung Quốc, ta đã có một bản kế hoạch Navarre với cả bản đồ.
Kế hoạch Navarre có hai bước: Một là, trong thu đông 1953 và mùa xuân 1954, Pháp giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam nhằm chiếm ba tỉnh tự do ở đồng bằng Liên khu 5 của ta. Đồng thời mở rộng xây dựng quân bản xứ đánh thuê thành một lực lượng lớn mạnh để chiếm đóng (giữ đất), và xây dựng một đội quân cơ động mạnh đủ sức đánh bại các đại đoàn chủ lực của ta. Bước 2, từ thu đông 1954, sau khi hoàn thành nhiệm vụ bước 1, chuyển sang tiến công chiến lược, buộc ta phải chấp nhận điều đình theo những điều kiện của Pháp. Navarre chủ trương “luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công”!
Rõ ràng trong kế hoạch Navarre không có Điện Biên Phủ!? Navarre liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét dữ dội vùng tạm chiếm Bắc bộ – Bình Trị Thiên và Nam bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng quân ủy bày phương án tác chiến trong Đông Xuân 1953 – 1954. Ảnh: TL
Trong thời gian này, các địa phương của ta luôn ngoan cường đối phó với các cuộc càn quét của địch. Quân chủ lực của ta tập luyện đánh công kiên và đánh vận động. Vào mùa khô 53-54, để giữ vững và phát huy quyền chủ động, ta chủ trương dùng một bộ phận chủ lực, kết hợp với lực lượng địa phương mở những cuộc tấn công vào những hướng chiến lược mà địch tương đối yếu để giải phóng đất đai và buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động để đối phó. Khoét sâu vào mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực tạo thế trận và thời cơ mới. Trên chiến trường Bắc bộ, ta hướng tấn công lên Tây Bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, uy hiếp địch ở Thượng Lào, sau đó sẽ tiến đánh Trung Lào và Hạ Lào. Ở khu 5, ta chủ trương đưa bộ đội chủ lực khu 5 lên đánh Tây Bắc để tiêu diệt sinh lực địch và bảo vệ vùng khu 5 một cách hiệu quả. Các chiến trường khác (Nam bộ, Bắc bộ, Nam Trung bộ và đồng bằng Bắc bộ ta đẩy mạnh chiến tranh du kích… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết thúc đề án tác chiến Đông Xuân 53 – 54 bằng mấy ý: Tổng quân ủy phải có kế hoạch lâu dài về mọi mặt để đối phó với quân địch trên toàn quốc… Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc là hướng chính không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải “thiên biến vạn hóa”!
Hướng chính là Tây Bắc trong Đông Xuân 53-54. Nhưng lực lượng địch ở Lai Châu lại ít, chỉ cần một đại đoàn để đánh Lai Châu. Như vậy thế trận Đông Xuân 53 – 54 của ta sẽ là 3 hướng: Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Tây Nguyên!
Nhưng Navarre đã ra tay trước. 22 tiểu đoàn của Navarre đánh ra Ninh Bình, trong trận đánh này một đại đoàn nhẹ do De Castries chỉ huy. Chính De Castries sau này là Tổng chỉ huy ở Điện Biên Phủ. Cùng với cuộc hành quân Hải Âu đánh ra Ninh Bình, Navarre còn đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa, hoạt động chiến tranh tâm lý ở khu 4… Những cuộc hành quân trên nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công vào đồng bằng Bắc bộ. Nhưng sự thất bại của cuộc hành binh Hải Âu làm cho Navarre lo lắng.
Trong lúc quân ta đang lo chưa xuất hiện một chiến trường chính, để có thể tiêu diệt một lực lượng lớn của địch trong Đông Xuân 53–54 thì ngày 20/11/1953 ta được tin địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Tiếp đó các ngày 21 và 22… tổng cộng 6 tiểu đoàn dù tinh nhuệ đã được ném xuống Điện Biên Phủ. Đến 10/12/1953, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã là 10 tiểu đoàn. Rồi chiến xa, pháo hạng nặng, máy bay chiến đấu… được tiếp tục điều tới…
Như vậy là Navarre đã thay đổi kế hoạch mà ông ta đã đề ra?
Sau này, trong hồi ký của mình, Navarre có biện minh cho việc đưa quân đến Điện Biên Phủ: “Hồi 18 giờ 15 phút ngày 20/11/1953, một bức điện mật cho biết Đại đoàn 316 hành quân lên Điện Biên Phủ uy hiếp mạnh Lai Châu. Tôi quyết định một hành động chiếm Điện Biên Phủ… để bảo vệ Luông-Phabăng, nếu không vài tuần nữa nơi đây rất nguy hiểm”! Các sử gia phương Tây sau này cũng cho là có tập đoàn Điện Biên Phủ là vì 316 tiến lên Tây Bắc. Thực tế không phải như vậy. Đại bộ phận đại đoàn 316 từ sau chiến dịch Tây Bắc 1952 vẫn đóng quân ở địa bàn này. Gần đây, trong cuốn hồi ức: “Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai thực hiện (NXB Quân đội nhân dân 2001), Đại tướng đã đưa ra một nhận định hoàn toàn mới mẻ. Navarre tiến hành cuộc hành quân Hải Ly (Castor), ném quân xuống thung lũng lớn nhất vùng Tây Bắc chỉ mong Điện Biên Phủ sẽ làm vai trò “chiếc nhọt tụ độc”, hy vọng thu hút từ 1 đến 2 đại đoàn của Việt Minh, làm phân tán khối chủ lực của đối phương, tránh một cuộc đụng độ lớn ở Bắc bộ, để rảnh tay tiến hành cuộc tiến công chiến lược ở miền Trung, tạo thành khu vực chia cắt 2 miền Bắc Nam, trước sau Navarre vẫn trung thành với kế hoạch ban đầu của mình. Để tránh một cuộc giao chiến ở Điện Biên Phủ mà Navarre mong muốn sẽ không xảy ra, Điện Biên Phủ phải đủ mạnh để đối phương không dám tấn công…
Sai lầm của Navarre và cả bộ tham mưu của ông ta ở Sài Gòn là khi nhận định: “Việt Minh không thể duy trì ở thượng du quá 2 đại đoàn và 20.000 dân công, sự bấp bênh về giao thông không cho phép họ mang tới đó pháo 75 ly cùng với đạn pháo quá 7 ngày chiến đấu (!)”.
Đó chính là điều khiến Điện Biên Phủ xa xôi, hẻo lánh trở thành điểm hẹn lịch sử. Trở thành “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”.
(còn tiếp)
L.P.K.
Tác giả gửi BVN
* Bài trích từ cuốn “Tại sao Điện Biên Phủ” xuất bản lần đầu năm 2004, tái bản năm 2014.