Thực trạng đê bao, bờ bao, đường sá… ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)

Sau khi đọc các bài viết của Doãn Mạnh Dũng, Đảng Xanh, Tô văn Trường, Lê Phú Khải trên trang Anh Ba Sàm nói về lũ và đê bao… ở ĐBSCL, là người được sinh ra và sống ở ĐBSCL hơn 70 năm, tôi tôn trọng việc khen chê cùa 4 tác giả vừa kể, chỉ ghi lại “trình làng” những gì tai nghe mắt thấy theo cảm nghĩ chủ quan của mình.

Thiên nhiên đãi đất cho mọi người, ưu tiên đãi phù sa cho dân ĐBSCL. Sẽ là một thiếu sót khi nói về ĐBSCL mà không đề cập đến lũ và phù sa.

Năm 1962 trở về trước, người nông dân ở ĐBSCL canh tác ruộng vườn chủ yếu dựa vào thiên nhiên, chỉ dùng phân chuồng bón vườn, còn ruộng thì dựa hẳn vào phù sa do lũ chu kỳ hàng năm mang đến, mỗi năm chỉ làm 1 vụ lúa mùa vượt nước; không có và không hề dùng phân hóa học và thuốc trừ sâu. Nếu tôi nhớ không lầm, từ năm 1962 xuất hiện đầu tiên là giống lúa Thần Nông 8 – gọi là lúa 3 trăng (3 tháng), xuất xứ đâu từ Philippines. Cũng từ ấy mới có việc tăng vụ và dùng phân hóa học và thuốc trừ sâu.Việc nầy có lẽ giáo sư nông học Võ Tòng Xuân rõ hơn ai hết.

Lũ hàng năm ở ĐBSCL bắt đầu khi trời sa mưa, nước từ thượng nguồn theo các con sông chảy một chiều về hướng biển. Cứ hết giai đoạn tràn sông đến tràn đồng, cao điểm 3 đến 4 m đối với 2 thung lũng đồng Tháp Mười và đồng tứ giác Long Xuyên. Người dân bản địa trải nghiệm: Thấy trời “mặc áo đen” ở vùng thượng nguồn là biết sắp có lũ về; Lấy mí dưới ổ chim Dòng Dọc hay ổ con Ong đóng trên cây tính mực nước lũ của năm ấy; cứ hễ mưa nhiều ở thượng nguồn thì lượng nước đổ lớn, cường suất mạnh, đất bị bào mòn nhiều, lượng phù sa theo nước cũng lớn – sai số không đáng kể.

Người dân ĐBSCL chỉ sợ lụt chớ không sợ lũ – lụt nước từ biển dâng lên gây nhiễm mặn, còn lũ nước ngọt từ trên cao đổ về đẩy độc hại theo sông ra biển, lũ càng lớn càng được nhiều phù sa và cá nước ngọt…- chỉ có lợi. Lũ về “vườn tược xanh tươi, ruộng đồng mát mẻ”, đó là câu kết truyền đời của cư dân nơi đây. Tôi đọc ở đâu đó không còn nhớ, khi xâm lược Việt Nam, nhà nông học Pháp kết luận: “Đồng bằng Bắc Bộ chết từ khi có đê Sông Hồng” không biết đúng vậy không?

Lũ ở ĐBSCL có tự bao đời, xảy ra thường niên. Không biết mắc chứng gì (có uống lộn thuốc không) khi nước nhà thống nhứt, Trung ương xem lũ ở đây như là nạn tai, lịnh cho giới chức ĐBSCL lập những khu di dân tránh lũ và làm đê bao, bờ bao để bảo vệ cây cối mùa màng, được mệnh danh là “chung sống với lũ”. Đã là lịnh thì không thể không thi hành, phóng viên viết bài thổi phồng, ghi hình đặc tả rồi tung lên hệ truyền thông đại chúng như sắp chết đến nơi không bằng.

Đã là lũ, nước từ trên cao chảy xuống thấp theo quy luật, kinh nghiệm bao đời, tốt hơn hết là vui vẻ đón tiếp nó, mở đường cho nó chảy về hạ lưu, chống lại nó là làm trái quy luật, ắt sẽ “tức nước vỡ bờ”. Đắp đê là “chống lũ” chớ không phải “chung sống” với lũ?!.

Tập quán sống thanh nhàn “gạo chợ nước sông” mà bảo vào sống chen chúc trong khu “tránh lũ” như “Khu trù mật”, “Ấp chiến lược…” ngày nào thì, dầu có nấu cơm nếp đậu xanh nhử, họ cũng chẳng thèm vào. Thế là tiêu ma khối tiền khổng lồ cho những khu “tránh lũ”!.

Thay vì cho nước lũ tràn qua xả độc, nhận phù sa, đắp đê bao cho nước lũ không vào khu vườn, sức ép của nước từ bên ngoài nén xuống mao mạch xì phèn bên trong khiến cho cây vườn nếu không bị chết cũng còi cọc, trái bị chai, bị sâu…, tiêu thụ khó.

“Tham thì thâm”, một số vùng ham làm lúa vụ ba (trái mùa) ngoài phí tổn đắp bờ bao, còn nạn xì phèn, phải dùng phân bón, thuốc trừ sâu đậm độ, cây lúa èo uột không thể cho năng suất cao, và chắc gì giữ được bờ bao do sức ép của nước từ bên ngoài quá lớn – đúng là bấp bênh, không chắc ăn chút nào, huề vốn là may!.

“Trên bộ kỵ mã, xuống sông kỵ thuyền”, ĐBSCL là miền sông nước mà cứ nằng nặc đòi kỵ mã kỵ xa, hết đắp đê đến đắp lộ làm cho ứ nước, dồn nước, nếu không vỡ bờ thì dòng chảy buộc phải đổi chiều, nước “giận dữ” tàn phá không sao kể xiết.

Nước lũ ở ĐBSCL theo chiều Bắc – Nam. Nếu thật sự “chung sống với lũ” thì ngoài không được đắp đê bao, để nước được trang trải trên diện rộng, hạn chế sự tàn phá của nó, cùng hưởng lợi phù sa và cá. Đặc biệt hơn, không được đắp lộ ngang theo chiều đông – tây chắn dòng nước lũ như đã làm gây bao thảm họa:

Bắc Đồng Tháp Mười, cư dân thưa thớt, không biết với dụng ý gì, thượng cấp cho đào kinh đắp lộ chắn ngang dòng lũ theo hướng đông-tây với tên gọi “Kinh lộ Trung ương”, cách biên giới Việt Nam-Campuchia trung bình khoảng 10 km bên phía VN. Kinh lộ nầy dài khoảng 40 km, bắt đầu từ thị trấn Hồng Ngự (tỉnh Đồng Tháp) ở hướng Tây, thẳng về hướng Đông sang tỉnh Long An (chưa rõ đích đến) – chẳng biết có phải đây là một đoạn nối dài của đường Hồ Chí Minh trên bộ hay không? Tác dụng của kinh lộ này nếu có cũng không đáng kể, chỉ thấy hàng năm lộ bị nước lũ tấn công sạt lở phải sửa chữa triền miên gây biết bao hao tốn! Hơn nữa, lượng nước buộc phải đổ về hướng Tây để ra sông Tiền, gây sạt lở 2 thị trấn Hồng Ngự, Tân Châu, chẳng những nhà cửa bị sập còn gây chết người…, gây bất an cho người dân hàng năm mỗi khi lũ về.

Tỉnh Tiền Giang đắp con lộ về phía bắc Quốc lộ 1 A, theo bờ bắc kinh Nguyễn Văn Tiếp A, từ giáp tỉnh Long An đến  thị tứ Thiên Hộ, dài khoảng 40 km; tỉnh Đồng Tháp đắp nối con lộ nầy xuyên qua huyện Tháp Mười (Mỹ An) gắn với lộ 30 có chiều dài khảng 20 km nữa. Vậy là con lộ có chiều dài tổng cộng khoảng 60 km này chắn ngang dòng lũ từ Đồng Tháp Mười đổ xuống. Do không làm đủ 18 cây cầu cầu tương ứng với số cầu trên Quốc lộ 1A thuộc địa phận Tiền Giang, khi lũ tràn đồng bị lộ nầy chặn lại, ngoài tổn phí sửa chữa sạt lở lộ, lượng nước buộc phải một mặt đổ về hướng Đông ra sông Vàm Cỏ khiến cho tỉnh Long An than trời trách đất, mặt khác đổ về hướng Tây ra sông Tiền, do cường độ của nước quá mạnh, gây sạt lở khủng thị xã Sa Đéc thuộc bờ tây sông Tiền.

Một con lộ khác cũng chắn ngang dòng chảy có chiều dài khoảng 20 km (không rõ tên), bắt đầu từ lộ 28 (Tây sông Tiền) thẳng đến sông Hậu, gắn với bắc An Hòa, đáp bến nội ô Thành phố Long Xuyên. Khi lũ tràn đồng, bị lộ nầy chặn, nước không đổ về hướng Đông ra sông Tiền được vì bị lộ 28 cản, buộc cả lượng nước phải đổ về hướng Tây ra sông Hậu, cường độ nước quá mạnh gây sạt lở khủng bờ Tây bắc Vàm Cống gần đó, tổn phí tu sửa lộ hàng năm cũng không nhỏ.

Những con kinh thoát nước từ đồng tứ giác Long Xuyên ra biển Tây do thủ tướng Võ Văn Kiệt chủ trương, theo tôi nó rất có lợi trong thau chua, xả lũ cho cả vùng Tây sông Hậu.

Về lý luận, “Cách mạng là thay cũ đổi mới, cái mới phải tiến bộ hơn cái cũ” – làm mà kết quả chỉ bằng hoặc kém hơn cái cũ là phản cách mạng? ĐBSCL là vựa lúa, vựa trái cây, vựa cá cho cả nước, làm thủy lợi nơi đây phải xem là làm cuộc cách mạng lớn, phải được cân nhắc kỹ, không cho phép quyết liệt theo cảm hứng, biến thủy lợi thành thủy hại như đã và đang làm là phản cách mạng.

Nói trái với chủ trương thường bị qui tội này khác, khiến  người ta giả bộ bằng mặt chớ không đâu đã bằng lòng, lén“xé rào” để tìm đường sống riết trở thành thói quen, thành thực trạng xã hội.

Việc đắp đê, đắp lộ như đã làm ở ĐBSCL gây dồn nước, ứ nước, tức nước… gây hại nhiều hơn lợi. Việc làm ấy phải xem là “chống lũ” chứ không phải “chung sống với lũ” – rất phản khoa học. Theo tôi, lãnh đạo Trung ương, địa phương cùng với ngành chủ quan nên mở hội nghị chuyên đề bàn tính kỹ hơn về việc này, đồng thời trao đổi với các nước bạn ở thượng nguồn nhầm bảo vệ nguồn nước lũ cho ĐBSCL.

Một câu hỏi đặt ra cho lãnh đạo VN: “Việc gì sẽ xảy ra nếu ĐBSCL không còn nguồn nước lũ?”. 

Dân miền sông nước Cửu Long, lớn nhỏ bơi như rái, lặn như cồng cộc, xuồng ghe luôn có sẵn bên mình. Mùa hạn hết nước lũ, nước mặn xâm nhập sâu, con người, cây cỏ cằn cỗi, còi cọc như chết chưa chôn; mùa mưa khi nước lũ tràn về, con người, cây cỏ như được hồi sinh, họ vui mừng như trẩy hội.

Lũ ở ĐBSCL chỉ có lợi, còn việc nó gây chết người một năm không bằng một giờ của giao thông đường bộ thì có chi mà hốt hoảng như thế?!.

2/4/2014

Đ.V.T

 

Tác giả gửi BVN

 

This entry was posted in Nông Thôn. Bookmark the permalink.