Thủ tướng “hoãn binh”?

gửi cho BBC từ Hà Nội

Ngày 9/3/2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có công văn số 405/TTg-KTN về việc “rà soát kiểm tra việc triển khai thực hiện các dự án nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản”.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thị sát công trường bauxite

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thị sát công trường bauxite

Công văn gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông và tất cả các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; được đưa ra hơn một tháng sau khi hai Tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh cảnh báo trên trang mạng Bauxite Việt Nam của giới trí thức Việt Nam yêu nước về “hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia”, xuất phát từ việc 10 tỉnh của Việt Nam trong có có các tỉnh giáp giới Trung Quốc cho người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông thuê trên 264 nghìn ha đất rừng đầu nguồn.

Công văn nêu rõ: “có nơi đã cho thuê cả diện tích đất có rừng tự nhiên; quy hoạch cho các dự án thuê đất vào những vùng nhạy cảm đã phải thu hồi lại”.

“Trước tình hình trên, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ ngành liên quan lập đoàn công tác tiến hành rà soát kiểm tra, đánh giá và báo cáo Thủ tướng về việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản”.

“Trong thời gian thực hiện việc rà soát kiểm tra, đánh giá, UBND các tỉnh không được cấp giấy chứng nhận đầu tư mới và không ký hợp đồng cho thuê đối với các dự án đầu tư nước ngoài trong phạm vi các lĩnh vực nêu trên”.

Phải nói động thái này của người đứng đầu Chính phủ đã làm cho hai vị Tướng và nhiều người trong và ngoài nước cho dù vẫn còn dè dặt tin rằng đây là sự khởi đầu tích cực cho việc chấm dứt hiểm họa đối với an ninh và quốc phòng của Việt Nam.

Tuy nhiên người viết bài này lại có quan điểm ngược lại, cho rằng đây chỉ là “kế hoãn binh” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tức việc ban hành công văn trên cốt “hạ nhiệt” chủ nghĩa yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc của người Việt – thế lực duy nhất có thể cuốn phăng Chính phủ nói riêng, chế độ chính trị hiện hành nói chung, chứ không nhằm giải quyết những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến sinh mệnh của quốc gia như mọi người trông đợi.

Quyết định không có tính chế tài

Có nhiều căn cứ để khẳng định điều này.

Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ có hai loại văn bản do Thủ tướng ký: Nghị định nhân danh Chính phủ và Quyết định nhân danh cá nhân Thủ tướng. Nghĩa là ngoài hai văn bản này ra thì các văn bản khác, trong đó có công văn, do Thủ tướng ký không có tính chế tài thi hành.

Để nói, nếu thực sự Thủ tướng Dũng muốn xử lý vụ bê bối siêu nghiêm trọng này thì chí ít phải ban hành Quyết định, điều mà ông này đã không làm.

Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh có liên quan, nói gì đến Bộ Quốc phòng, đã không hề được lãnh đạo tỉnh tham khảo và tất nhiên càng không được mời thẩm định các dự án cho thuê rừng.

Thứ hai, công văn không hề ấn định thời điểm mà các bộ có liên quan phải “bắt tay vào cuộc” cũng như thời điểm kết thúc việc rà soát, kiểm tra, đánh giá việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Điều này cho thấy không có việc Thủ tướng Dũng buộc các tỉnh dừng ngay tức khắc việc cấp giấy chứng nhận đầu tư mới và ký hợp đồng cho thuê đối với người nước ngoài.

Thêm nữa, trong Công văn không có những thuật ngữ như “xung yếu”, “an ninh quốc gia”, “quốc phòng” được đề cập trong thư của các Tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh” nên về hình thức công văn của Thủ tướng Dũng không nhằm giải quyết lo ngại chính của hai vị lão Tướng là lo ngại về an ninh, quốc phòng.

Cứ cho những “vùng nhạy cảm” được sử dụng trong Công văn ám chỉ những vùng xung yếu về an ninh, quốc phòng thì thành phần rà soát các dự án cho người nước ngoài thuê rừng đương nhiên không thể thiếu Bộ Quốc phòng. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, trong địa chỉ đến của Công văn không có Bộ Quốc Phòng.

Cuối cùng, đây mới là bản chất của vấn đề: chính Chính phủ đã gián tiếp “bật đèn xanh” cho người Trung Quốc và gốc Hoa thuê rừng đầu nguồn của Việt Nam như trên đã đề cập.

Thực vậy, Khoản 2 Điều 11 Luật Quốc phòng quy định việc quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và khu vực trọng điểm về quốc phòng phải được Bộ Quốc phòng và cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ phối hợp thẩm định thế nhưng trên thực tế, Bộ Quốc phòng đã bị gạt ra rìa quy trình cấp phép cho các dự án cho thuê rừng.

Bằng chứng là ngay các Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh có liên quan, nói gì đến Bộ Quốc phòng, đã không hề được lãnh đạo tỉnh tham khảo và tất nhiên càng không được mời thẩm định các dự án cho thuê rừng.

Cái “giật mình” kèm theo khẳng định của đại tá Hoàng Công Hàm, Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn trước báo chí vào ngày 15/3 vừa qua:“Họ chưa qua một cấp nào của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh thẩm định cấp dự án nhất là về rừng dọc biên giới. Tất cả các dự án lớn như thế thì chắc chắn phải báo cáo Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Chúng tôi không được báo cáo thì làm sao chúng tôi tham mưu được. Dự án trồng rừng 50 năm có người nước ngoài là ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng rồi”hẳn không cần thêm lời bình.

Điều 3 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ hướng dẫn Luật bảo vệ và phát triển rừng quy định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thay mặt Chính phủ lập và quản lý hồ sơ giao, cho thuê rừng và đất để trồng rừng. Vậy không lẽ với tư cách là người lập và quản lý hồ sơ rừng mà Chính phủ lại không hề hay biết hàng trăm nghìn ha rừng đầu nguồn đã được cho người Trung Quốc và gốc Hoa khác thuê, không những thế với thời hạn đến 50 năm?

“Con voi” – hàng trăm nghìn ha rừng đầu nguồn, mà tuyệt đại đa số ở những khu vực trọng điểm về quốc phòng, khó có thể “chui lọt lỗ kim – cấp phép” nếu không được Chính phủ mà trước hết là Thủ tướng Dũng chấp thuận, trực tiếp hoặc gián tiếp!

Suy cho cùng, nếu không có việc chuẩn bị Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 11 họp vào đầu năm sau, 2011, thì “kế hoãn binh” này không chắc được thi hành.

Ngay cả trong trường hợp cực chẳng đã Thủ tướng Dũng phải biến “hoãn binh” thành “động tác thật” nhằm mục đích tranh cử thì sau Đại hội 11 Đảng cộng sản Việt Nam, nếu ông Dũng vẫn còn ở vị trí quyền lực, không có gì đảm bảo rằng mọi chuyện rồi lại không y như cũ; nghĩa là lại đặt Việt Nam ở tình thế cực kỳ nguy hiểm về an ninh, quốc phòng bằng việc cho phép các tỉnh tiếp tục cho người Trung Quốc và gốc Hoa khác thuê rừng đầu nguồn ở những khu vực xung yếu về quốc phòng.

Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2010/03/100323_pm_cuhuyhavu.shtml

This entry was posted in Bô-xít and tagged , . Bookmark the permalink.