Luật pháp và hoà giải chính trị – các kinh nghiệm quốc tế (tt)

Đỗ Kim Thêm dịch


clip_image002

TỘI ÁC CHIẾN TRANH VÀ VI PHẠM KHÁC TRONG QUÁ KHỨ

clip_image004

Vấn đề chính mà các xã hội trong thời kỳ tái thiết hậu chiến phải đối đầu là giải quyết các tồn đọng những phạm pháp quy mô gây thương tổn cho cả hai phiá tranh chấp. Những vi phạm trầm trọng nhất được quy định theo luật quốc tế là tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và diệt chủng. Các quốc gia cần tuân theo vấn đề trách nhiệm cho những vi phạm này, trong khi chưa cấu thành tội phạm theo hình sự quốc tế, vẫn còn gây cảm tưởng sâu xa thù hận và xung khắc trong thời hậu chiến.

Một số các vi phạm này xảy ra trong khi tranh chấp đang sôi bỏng, một số các vi phạm khác xảy ra trước kia, thổi bùng  uất hận đưa đến xung đột. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau cần tìm hiểu để tham khảo vấn đề.

Trách nhiệm hình sự

Có nhiều lập luận cho rằng không những tòa án và trừng phạt các vi phạm là chủ yếu để đạt đến công lý, mà còn thảo luận công khai và kết án tội phạm là cách tốt nhất làm ngăn cách giữa quá khứ và hiện tại, từ đó công luận sẽ cảm nhận trật tự mới ít nhất cũng hơn trật tự cũ.

Có những người khác cáo giác rằng những phiên toà nặng phần trình diễn không phù hợp cho tìm kiếm hoà bình và dân chủ. Xét lại công khai các tội ác thời chiến chỉ khơi động thù hận thay vì xoa dịu. Cách tốt nhất để tái thiết và hoà giải đất nước là giã từ quá khứ bằng cách quên đi và tha thứ tội ác của các phe trong tranh chấp.

Trong một vài quốc gia, truy tố các vi phạm trong thời chiến có nhiều chức năng, đem lại cho nạn nhân về ý nghĩa công lý và phấn khởi – bất bình có thể được giải toả, một ý nghĩ dễ đặt ra hơn làm âm ỉ cháy cho ước vọng về một tranh chấp khác. Hơn thế, những truy tố có thể đem lại năng động mới cho xã hội, một sự hiểu biết là người tấn công và vi phạm quyền của người khác phải bị quy trách.

Bởi vì toà án được dân chúng địa phương và quan sát viên ngoại quốc quan tâm, họ thường chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống tư pháp và tư pháp hình sự phù hợp với những nguyên tắc về uy lực pháp quyền. Có lẽ quan trọng nhất cho mục tiêu của hoà giải lâu dài là cách nhấn mạnh đến những cá nhân đặc biệt – không phải là toàn thể những nhóm sắc tộc, tôn giáo hay chính trị.  Làm được như thế thì cách này gạt bỏ được một loại tinh thần nguy hiểm về tội lỗi tập thể và báo thù thường sinh ra vòng lẩn quẩn của thù oán và bạo lực.

Khi tiến hành truy tố thì mạng lưới trừng phạt cần được đặt ra như thế nào cho những người phạm tội chiến tranh và các tội ác tương tự? Giới lãnh đạo sẽ chịu cách nhiệm về việc sai phạm của thuộc cấp mình như thế nào? Ngược lại, quân nhân và công chức vi phạm khi tuân lịnh thượng cấp sẽ bị quy trách như thế nào?

Các chuẩn mực quốc tế được triển khai nhằm giải quyết các vấn đề này. Người ta ngày càng đồng thuận hơn vì ít nhất là đối với những vi phạm trầm trọng về nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế, ân xá tất cả là chuyện không được phép. Mặt khác, tội phạm như diệt chủng hay tội ác chống nhân loại, nói chung, đòi hỏi tham gia đông đảo quần chúng và luật quốc tế không đòi hỏi phải truy tố từng cá nhân liên quan đến tội ác. Đưa hàng trăm hoặc đôi khi hàng ngàn người ra toà, dù trước tòa địa phương hay quốc tế, là một việc bất khả về phương diện tài chính, chính trị hay tổ chức hậu cần. Một số các truy tố có tính biểu tượng những phạm nhân này có thể làm thỏa mãn nghĩa vụ quốc tế, đặc biệt nếu chương trình xét xử trên quy mô quá mức sẽ đe doạ đến ổn định đất nước. Thí dụ như Argentina, Ethopia và các quốc gia Đông Âu đã chấp nhận phương thức này khi giải quyết vấn đề tồn đọng trong việc vi phạm nhân quyền của các chế độ sụp đổ.

Trong một số trường hợp, có nhiều khó khăn có thể giải quyết được bằng cách phân loại các đặc tính của tội phạm và đề xuất phương cách giải quyết khác nhau. Nói chung, các phân loại này như sau:

1) những nhà lãnh đạo vi phạm vào tội ác chiến tranh và những nguời trực tiếp thực sự thi hành (một số lượng nhỏ nhất phạm nhân không thể tránh được);

2) những người vi phạm tội trầm trọng khác nhưng không thuộc vào nhóm người thứ nhất; và

3) những người vi phạm tối thiểu. Tính cách gia trọng của từng biện pháp được xử lý tùy theo cách tương ứng.

Hoà ước Dayton chung quyết chiến cuộc tại Nam Tư cũ đã theo phương cách này.

Trong cách phân loại thứ nhất, các phe lâm chiến tự kết ước hợp tác với tòa án hình sự quốc tế lập thủ tục truy tố các phe tranh chấp vi phạm các tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội ác chống nhân loại. Những hiệp ước này cũng cấm đoán cá nhân khi bị toà truy tố sẽ không được giữ chức vụ công.

Trong loại phạm tội thứ hai, hiệp ước cũng quy định nghĩa vụ phải khởi tố, miễn tố, chuyển giao phạm nhân thuộc lực lượng quân sự, bán quân sự, cảnh sát, công chức trách nhiệm khi vi phạm trầm trọng đến những quyền căn bản của con người. Hiệp ước xem đây như là những biện pháp xây dựng niềm tin.

Chung qui, tất cả những người tỵ nạn và những người lưu lạc hồi hương, khi họ bị cáo giác với các tội danh khác hơn là các vi phạm gia trọng thuộc về luật nhân quyền quốc tế, sẽ được đảm bảo ân xá vì những vi phạm này. Trong khi việc thi hành các điều khoản này còn thiếu sót nhưng căn bản pháp lý rất vững chắc.

Trường hợp Rwanda cho thấy cần có nhu cầu thực tế nhằm xoa dịu các truy tố theo cách cực đoan. Với nhiều thập niên, giới lãnh đạo dùng mọi thủ đoạn nắm quyền để làm biến chất các tranh chấp sắc tộc giữa Hutu đa số và Tusti thiểu số cho cứu cánh chính trị mà không lo sợ bị quy trách về hành động của mình. Hành vi này đạt đến cao điểm vào năm 1994, đây là một trong những diệt chủng kinh hoàng nhất trong ký ức gần đây khi 500.000 cho đến 1 triệu người Tutsi và nhiều người hiếu hòa Hutus bị giết chết một cách tàn nhẫn trong vòng 14 tuần.

Để phá vỡ vòng bạo lực lẩn quẩn này, chính phủ mới của Rwanda kiên quyết một cách đúng đắn là phải thay đổi quyền đặc ân miễn tố với tinh thần chịu trách nhiệm theo luật, đây là điều tất yếu. Để đạt mục tiêu này, trong năm nhậm chức đầu tiên, các giới chức cao cấp của chính quyền mới kiên quyết là các cá nhân tham gia vào việc thảm sát phải bị truy tố và trừng trị. Kết quả là khoảng 125.000 bị cáo buộc tội diệt chủng bị giam nhiều năm trong tù trước khi xét xử. Việc giam giữ phân thành nhiều nhóm nhỏ, làm số lượng này ít hơn tổng số phạm nhân, nhưng lại quá nhiều để xử lý trong một thời gian hợp lý trong bất cứ hệ thống tư pháp hình sự nào.

Vấn đề càng trầm trọng hơn, khi hệ thống tư pháp hình sự Rwanda đã bị dẹp bỏ trong thời diệt chủng, các luật sư và chánh án đã bị giết, đi tị nạn hay vào tù. Trong ba năm vừa qua, toà án Rwanda đã xử hơn ba ngàn vụ tội diệt chủng  – một thành tích kỷ lục chưa từng có trong bất cứ xã hội nào trong lịch sử – khi người ta còn bị quay cuồng trong đổ vỡ – Nhìn chung, theo nhận xét của các quan sát viên độc lập, kể cả những người đại diện cho bị cáo, thì các phiên xử được tiến hành khách quan.

Cuối năm 2001, chính phủ Rwanda dự kiến giao đa số các vụ kiện thụ lý cho hệ thống tòa án địa phương gọi là gacaca, một mô hình tư pháp cổ truyền lỏng lẻo hơn. Dân làng từng địa phương sẽ tuyển chọn chánh án toà gacaca cho làng mình. Bị cáo sẽ ra trước toà địa phương để điều trần, kể cả có sự tham gia tích cực của các thành viên thuộc cộng đồng địa phương. Chương trình này không hội đủ những tiêu chuẩn quốc tế như được đề cập trong phần đầu của bài viết này, vì còn nhiều thiếu sót, đặc biệt là trong điều kiện phù hợp với chuẩn mực quốc tế hiện nay về thủ tục hình sự và quyền bảo vệ hình sự.

Vài nạn nhân sợ rằng tại một vài địa phương nơi mà tội diệt chủng bị xoá đến độ không còn nhân chứng, toà gacaca sẽ là phiên toà xoá sạch do láng giềng của bị cáo, những người đã hỗ trợ cho tội diệt chủng; một vài bị cáo sợ rằng một hệ thống tư pháp được làm rùm beng trước toà gacaca tại địa phương sẽ bị nạn nhân khống chế; các tổ chức quốc tế và điạ phương hoạt động nhân quyền bày tỏ mối quan tâm này, trong đó kể cả việc loại trừ luật sư cho bị cáo trong thủ tục trước toà gacaca.

Dù thế, hầu hết người Rwanda cảm thấy là họ không có cách nào khác; toà không thể xử án theo đúng thời gian quy định vì công việc quá nhiều. Về phương diện chính trị, không thể chọn cách mở cửa nhà tù và thả hàng trăm người bị cáo buộc tội diệt chủng; nhưng lại không thể chấp nhận tiếp tục giam người trong nhiều năm mà không xét xử. Dù chương trình toà án gacaca gây nhiều tranh luận, các luật sư Rwanda lập luận rằng chương trình cam kết các địa phương sẽ theo tiến trình công lý, đưa các phạm nhân tái hội nhập vào sinh hoạt địa phương và thả hết tù trong thời hạn tương đối ngắn trong các vụ không được xét xử.

Trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, có thể lập luận chung là không có những trừng phạt quy mô trong các phiên toà chuyển tiếp này. Dù đồng ý là có nhiều cảm xúc và áp lực chính trị nặng nề gắn liền với các vụ kiện này, án tử hình có thể làm trầm trọng xung đột hơn cho xã hội trong thời kỳ tái thiết.

Vấn đề quy trách và miễn tố không chỉ liên quan tới việc giải quyết tranh chấp trong quốc gia bị chiến tranh tàn phá, mà còn có ảnh hưởng trầm trọng cho tương lai, dường như cho cả những xung đột không liên quan tại các nơi khác trên thế giới. Khi giải thích về niềm tin tại sao tham gia diệt chủng mà không sợ bị cộng đồng quốc tế báo thù, Adolf Hitler đã nhạo báng một cách đáng khinh bỉ: “Ai nhớ người Armenian?” – khi đề cập tới nạn nhân của diệt chủng hai mươi lăm năm trước đó mà không ai bị quy trách. Bằng chứng gần đây cho thấy giới lãnh đạo Serb ở Bosnia khi thực hiện chính sách xóa sạch sắc tộc và diệt chủng vào thập niên 1990 được thúc đẩy bởi sự kiện là lực lượng Khmer đỏ không hề bị truy tố hay buộc tội về những vi phạm tại Cambobia vào những thập niên 1970.

Thanh lọc cấu trúc chính quyền 

Quy trách cá nhân bao hàm đến việc xét xử hình sự. Trong nhiều quốc gia, nhiều nguời có liên hệ tới quá khứ phạm pháp có thể bị giới hạn, khi tham gia sinh hoạt công quyền. Một nền hòa bình dài lâu đòi hỏi niềm tin chung trong thể chế về trật tự mới. Niềm tin chung có thể bị suy giảm trầm trọng nếu thể chế này được cũng được điều hành bởi các viên chức đã gây nên nhiều thù oán trước đây hay hiện nay. Những người trước đây giữ đầu máy cho việc lạm quyền, nhưng nay không còn trong bộ máy chính quyền, có thể bị coi như không trung thành. Những người hỗ trợ cho quan điểm phân biệt hay các chiến thuật lạm quyền của các phe nhóm chống chính quyền trước đây, nay không được coi như những ứng viên khả tín cho những chức vụ trong bộ máy hành chánh công quyền khách quan.

Một vài xung đột có thể thiếu những phần tử thuộc về những nhóm thủ phạm và nạn nhân, nhưng hầu hết những xung đột nội chiến sau thời chiến tranh lạnh bao gồm nhiều khuôn mẫu tội ác hay các vi phạm trầm trọng do phe này hay nhóm kia gây ra. Ngay cả khi họ không bị quy trách theo luật hình, những người gây thuận lợi cho những vi phạm trong quá khứ không được phép gây tác hại hay làm đại biểu trong cơ cấu trong chính phủ mới. Cùng lúc, người ta có thể lập luận rằng trong thời tái thiết hậu chiến những nhân tài giàu kinh nghiệm thuộc về giới trẻ thuộc cấp thấp ở cơ quan hành chánh cho đến các bộ trưởng có thể còn khan hiếm, một vài người trong số này, đặc biệt thuộc về chính quyền cũ, rất quan trọng trong việc tái thiết đất nước, kiến thức và kinh nghiệm của họ rất cần thiết cho việc tạo trật tự mới.

Có nhiều thí dụ cho việc thử nghiệm thanh lọc như thế. Tại El Salvador, hoà uớc lập ra một Ủy Ban chuyên trách đặc biệt nhằm minh danh một trăm sĩ quan cao cấp để hồi hưu vì những vi phạm nhân quyền trong quá khứ. Tại Bosnia, Toán Đặc Nhiệm Cảnh Sát quốc tế được giao chuyên trách loại trừ tất cả những ứng viên cho ngành cảnh sát tân lập điạ phương, khi họ phạm tội với sắc tộc thiểu số trước đây. Ngay cả đối với những ứng viên không bị truy tố vi phạm các tội này, nhưng khi cho phép họ nắm chức vụ, mà sự hiện diện của họ sẽ tạo nên một cảm tưởng bất công trong những nạn nhân trước đây, sẽ cản trở nỗ lực xây dựng hoà bình.

Tuy nhiên, thanh trừng bằng luật hành chánh không có mức độ bảo vệ đúng luật thủ tục giống như thủ tục hình sự. Vì khuynh đảo kiểu này liên hệ đến nhiều người, nên thường có khuynh hướng thực hiện trong một phương cách ngắn gọn và bị lạm dụng, nhất là khi trừng phạt theo công lý của kẻ chiến thắng và phân chia các chức vụ chính quyền.

Trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm luật định, tinh thần thượng tôn pháp luật từ bỏ khái niệm về tội lỗi tập thể. Nhiều người phải bỏ việc làm chỉ vì họ đã ở điạ phương có tranh chấp hoặc là đảng viên một đảng chính trị, khi họ không có biểu hiện sai trái cá nhân, thì họ có thể kêu oan và đòi công lý và dân chủ của chính quyền mới.

Thay vì đóng góp cho hoà giải và tái thiết, những xáo trộn này chỉ tạo thêm chống đối làm đe doạ ổn định cho chế độ mới. Trong một số trường hợp, ảnh hưỏng của những biện pháp này được giảm đi nhờ cấm đoán chỉ giới hạn trong một vài năm cho các cá nhân có dính liú; họ được tham gia công vụ, sau khi tình hình lắng dịu, hoặc cho phép họ tham gia sau thời kỳ tái thiết và sau khi thể chế công quyền đi vào nề nếp và được tín nhiệm. Vấn đề này cần cân nhấc cẩn trọng về các quyền lợi.   

Tạo tư liệu lịch s

Trong thời kỳ chuyển tiếp sau khi tranh chấp giữa các quốc gia, lịch sử luôn là đề tài gây tranh luận. Mỗi phiá vẫn còn có người ủng hộ để phủ nhận các cáo buộc vi phạm đã xảy ra và cáo giác luôn là mình bị đối thủ vi phạm hoặc biện luận trường hợp hành động do tình thế đòi hỏi. Dù không thể kiểm chứng, nhưng những cáo buộc nhau làm suy yếu trật tự mới và nỗ lực xây dựng hoà bình. Cáo buộc làm tăng thêm thoá mạ về tổn hại đã gây ra cho nạn nhân, gieo giống oán thù và chỉ gặt thêm bạo lực mới. Chiến tranh Bosnia phơi bày những vấn đề không giải quyết của lịch sử và oán thù kể từ bảy thế kỷ truớc.

clip_image005

Hậu quả là ngoài việc theo dõi các cá nhân thủ phạm, việc thu thập tài liệu chính thức của quá khứ thường là một yếu tố quan trọng cho một thời kỳ chuyển tiếp thành công, mang lại ý nghĩa cho công lý và phấn khởi. Một mặt, muốn được toà hình sự xử nghiêm minh phải tìm sự kiện và bằng chứng về vi phạm trong qúa khứ và thiết lập „uỷ ban chân lý“ là một mặt khác.

Trong khi hai tiến trình này có thể bổ sung nhau, ủy ban chân lý sẽ hữu ích hơn cho việc hàn gắn vết thương chiến tranh và hoà giải nếu đất nước không trang bị để xúc tiến những phiên toà công minh và khả tín. Hoà giải trong trường kỳ đòi hỏi sự nghiên cứu cẩn trọng cách phối hợp này. Nó sẽ thích ứng tốt nhất cho xã hội.

Tại El Salvador, cuộc nội chiến kéo dài 12 năm giữa chính phủ và Mặt Trận Giải Phóng Farabundo Marti National Liberation Front (FMLN), làm cho khoảng 27.000 người chết. Khi hòa đàm tiến hành, những cáo buộc và phản biện về các tội các vi phạm của hai bên, đe doạ trở thành những trở ngại trầm trọng cho việc tìm một giải pháp hoà bình cho xung đột. Tuy thế, phải công nhận là hận thù và bất tín nhiệm chồng chất qua thời gian đòi hỏi một số cơ chế cho phép mô tả trung thực về các hành động kinh hoàng này.

Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1992, cơ quan tư pháp được thành hình, nhưng bị chính trị hoá cao độ và thoả hiệp và không có khả năng và đủ tín nhiệm để giải quyết những vấn đền khó khăn thuộc về trách nhiệm tội ác trong chiến tranh hay những vi phạm về nhân quyền một cách khách quan. Một Ủy ban ba thành phần của LHQ về Chân Lý được thiết lập do thoả ước giữa các phe tranh chấp được xem như là bước tiến khởi đầu nhằm đạt được ý nghĩa của công lý và trách nhiệm.

Mặc dù không phải là Toà án, Ủy Ban – giống như những cơ chế tương tự được lập ra tại nhiều quốc gia phải giải quyết các tồn đọng từ những vi phạm với mức độ quy mô – điều tra và báo cáo về tội ác do hai phiá vi phạm trong thời chiến, tạo cho nạn nhân và thủ phạm hai phiá có cơ hội làm chứng tích cho các tài liệu chính thức. Bởi vì thiếu một hệ thống tư pháp hình sự khả tín, Uỷ ban này cảm thấy bị buộc phải giải thích vài phán quyết theo như Baó cáo 1993, nếu không phải giao lại cho cơ quan tư pháp El Salvador để xử lý.

Một thí dụ chính là quyết định của Ủy ban đã công bố danh tính những thủ phạm các trường hợp nghiêm trọng, dù là trong tiến trình của Uỷ Ban không đòi hỏi phải bảo vệ cho các phạm nhân này được hưởng quyền đúng theo luật thủ tục quy định. Nếu khi hoạt động của hệ thống tư pháp quốc gia đạt đến mức khả tín, thì Ủy ban sẽ giữ danh tánh này bí mật trong các báo cáo, thay vì giao cho chính quyền để truy tố. Trong một báo cáo của mình, Ủy ban phân tích những đường lối mà việc quân sư hoá xã hội El Salvador đã làm tê liệt hoạt động tam quyền phân lập của chính quyền. Ủy ban cũng khuyến cáo nâng cao triển vọng của từng thể chế này vai trò của quân đội cho phù hợp với tinh thần thuơng tôn pháp luật.

Nhiều Ủy ban chân lý lập ra một diễn đàn cho hàng trăm hay hàng ngàn nạn nhân mà họ chưa bao giờ đưọc mời ra toà làm chứng. Trong nhiều quốc gia các Uỷ ban này không chỉ đơn thuần cứu xét đến các trường hợp cá nhân, mà còn vấn đề hệ thống đã gây ra vi phạm, tùy theo vai trò của từng lĩnh vực khác nhau, các lực luợng an ninh, lãnh đạo tôn giáo, truyền thông, hệ thống giáo dục, cơ quan tư pháp, v.v. tạo nên một môi trường cho vi phạm phát sinh. Dựa trên các phân tích này, Ủy ban được giao chuyên trách cho việc soạn thảo các khuyến cáo thật chi tiết về những biện pháp cải cách cho chính phủ và xã hội. Các Uỷ ban chân lý được lập ra trong thời hậu chiến, lúc gần đây, bị cáo giác là làm việc trong mức độ rộng lớn hơn dự kiến trong thời chuyển tiếp từ chế độ đàn áp, khi triển khai phương cách đóng góp cho tiến trình hoà giải.

Tại Guatemala, nội chiến tàn phá đất nước hơn 35 năm với cái giá phải trả là hơn một trăm ngàn nhân mạng, hoà ước uỷ nhiệm cho Uỷ ban chân lý tìm ra „một chân lý toàn diện“ về những vi phạm trong quá khứ của các phe phái, thể hiện việc này như một tiến trình để tạo nền tảng cho sự sống chung an hoà và sẽ xoá bỏ mọi hình thức báo thù như điều kiện tiên quyết cho một nền hoà bình vững chắc và dài lâu. Tại Sierra Leone, người ta hy vọng rằng Uỷ ban chân lý sẽ có khả năng giải quyết những vấn đề quân nhân vị thành niên vi phạm tội ác. Tại Bosnia, Ủy ban chân lý sẽ trình bày thành tích cá nhân từ các phe phái trong tranh chấp, những người dám mạo hiểm để bảo vệ cho đồng bào và các nhóm sắc tộc trước các vi phạm.

Bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự 

Cuối cùng, theo quan điểm của uy lực pháp quyền, việc đề cập đến vi phạm trong quá khứ không chỉ dành cho thủ phạm mà còn cho nạn nhân. Dù thế, những đòi hỏi tranh nhau về những phương tiện giới hạn luôn là một đặc điểm của nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự cho nạn nhân phải được đưa vào trong hầu hết các kế hoạch tái thiết hậu chiến. Bồi thường thiệt hại có ít nhất ba chức năng trong tiến trình hoà giải quốc gia.

Thứ nhất, giúp cho nạn nhân nắm bắt được các khía cạnh thiệt hại vật chất đã mất. Thứ hai, tạo nên sự công nhận chính thức về vết thương đất nước. Cả hai tạo thuận lợi cho việc tái hội nhập xã hội chịu nhiều đau khỗ trong câm lặng. Thứ ba là làm ngăn trở vi phạm của nhà nước trong tương lai bằng cách đặt ra những bồi thường tài chính cho những hành vi sai trái. Trong luật quốc tế có sự đồng thuận là nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân qua những sai phạm nghiêm trọng về luật nhân quyền do chính quyền gây ra. Nếu chế độ vi phạm nhân quyền mà không bồi thường thì chính phủ kế nhiệm phải lãnh trách nhiệm này.

Trong một vài quốc gia, người ta đặt ra quyền luật định mới có liên hệ đến khía cạnh phức tạp về công lý này trong giai đoạn hậu chiến. Sau khi chiến tranh chấm dứt tại nước Nam Tư cũ, hoà ước quy định thành lập ủy ban giao lại đất đai cho những người bị lưu lạc trong thời chiến, giải quyết vô số các tranh chấp tài sản, bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân lưu lạc trong thời xung đột.

Tại Rwanda có hàng ngàn khiếu nại do nhiều nhóm khác nhau về tài sản: nhóm ngưòi tỵ nạn Tutsi đã ra khỏi nước từ hơn 35 năm, những nguời lưu lạc trong thời diệt chủng, những người tỵ nạn thuộc sắc dân Hutu rời nước vào năm 1994, có những tù nhân hồi hương trước đó rất lâu cũng được tham gia khiếu nại.

Tại cả hai nước Rwanda và Nam Tư cũ, tinh thần thượng tôn pháp luật đòi hỏi bồi thường thoả đáng thiệt hại, đó là điểm thiết yếu cho việc xây dựng hoà bình dài lâu. Tùy thuộc vào tình hình, việc bồi thưòng thiệt hại có thể sắp vào chương trình trả lại tài sản đã mất hoặc là cho học bổng hoặc trả tiền hưu cho thân nhân còn sống của nạn nhân  hoặc tài trợ  cho những Qũy hoạt động văn hoá của nhóm thiểu số. 

Nhu cầu  kết hợp các khảo hướng 

Những tội ác tập thể có hệ thống thường làm bộc phát những vấn đề phức tạp trong xã hội hoặc là tạo thêm điều kiện cho sự bộc phát này. Nói chung, những tội ác này không có những giải pháp đơn thuần. Càng thể hiện rõ hơn là việc xây dựng một nền hoà bình hậu chiến có hiệu năng đòi hỏi không những những cơ chế như đã khởi thảo mà còn là một khảo hướng liên kết nhằm tổng hợp và phân định những phương cách dị biệt để giải quyết các trường hợp đặc thù.

Trong hơn hai năm trong hậu chiến Bosnia, một số người đồng ý rằng Ủy Ban chân lý và hoà giải phải được thành hình để bổ sung cho công việc của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế tại The Hague, tạo diễn đàn cho hàng ngàn nạn nhân, triển khai những khuyến cáo cho những cải cách hệ thống và đãm nhiệm các công tác khác. Nỗ lực bị ngăn trở vì có những người cự tuyệt cho một cơ chế như thế không nên thành hình, cho đến nào mà khi toà án đảm nhận công việc. Kết qủa có hàm ngụ một lời tuyên bố: nếu xã hội đang tái thiết xác định mình không có khả năng tự tổ chức những phiên toà khả tín để xử tội phạm và nếu cộng đồng quốc tế đãm nhận được khả năng này, thì xã hội sẽ phải bị kềm hãm rất lâu để theo đuổi bất cứ chương trình nào khác để giải quyết quá khứ xáo trộn của mình.

Cũng tương tự như vậy, tại Sierra Léone, hoà ước Lomé năm 1999 đề ra việc thành lập Ủy Ban chân lý và hòa giải. Sau đó, Hội Đồng Bảo An LHQ ủy nhiệm thành lập toà án chuyên trách tội ác chiến tranh tại Sierra Léone – điểm mà vài giới chức quốc tế đề nghị nỗ lực ủy ban có thể được hủy bỏ. Trong cả hai trường hợp, nhũng cuộc thảo luận sâu rộng giữa các giới chức địa phương và quốc tế vào cuối năm 2000 đạt được sư đồng thuận về nhu cầu về toà án và Ủy ban chân lý, cả hai cùng tiến hành để bổ sung nhau hoàn thành những chức năng khác nhau, đưa các quốc gia xáo trộn này thăng tiến.

Trong việc giải trình trách nhiệm đối với bạo lực tập thể tại Đông Timor, LHQ và các chính quyền địa phương cũng đã chấp nhận một phương cách tương tự nhằm liên kết gồm nhiều đường hướng. 

TIẾN TRÌNH LẬP HIẾN  

clip_image007

Tại nhiều quốc gia chuyển tiếp từ nội chiến sang chính quyền mới, một trong những công tác quan trọng nhất là thảo hiến. Dĩ nhiên, hiến pháp là một tài liệu pháp lý nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật pháp của quốc gia, hiến pháp là viên đá đầu tiên cho tinh thần trọng pháp. Hơn nữa, hiến pháp bao gồm viễn kiến cho một xã hội mới, đề ra những nguyên tắc cơ bản để công nhận hệ thống chính trị, cách phân bổ quyền lực trong một nước, những điều khoản về luật nội dung và thủ tục mà cả hai có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cũng cố hoà bình.

Khi việc thảo hiến và áp dụng do một nhóm ưu tú của phe thắng cuộc đề ra, kết quả mang lại là nền tảng này không những chỉ thiếu dân chủ mà còn không ổn định. Nói một cách tương tự, nếu đồng ý với đặc điểm của hiến pháp, thì lập hiến có thể tạo nên một tiến trình đối thoại quốc gia, cho phép những viễn kiến đối nghịch và những khiếu nại trong xã hội hậu chiến được diễn đạt và kết hợp, để tạo điều kiện cho việc hoà giải giữa các phe nhóm. Đó cũng có thể là một tiến trình cho giáo dục quốc gia trong các chiều hướng về các khái niệm chính quyền, vấn đề và quan tâm của các phe nhóm khác nhau trong đất nước, phát triển xã hội dân sự và trách nhiêm công dân và chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, nguyên tắc không phân biệt và khoan dung, tất cả phải được du nhập trong hiến pháp mới. Tóm lại, tiến trình lập hiến có thể đóng góp cho hoà bình và ổn định.

Tại Eritrea, sau ba mươi năm chiến tranh giành độc lập, tiến trình lập hiến đặt tr ọng tâm vào cấu trúc nhằm tạo thuận lợi cho cũng cố hoà bình. –  trong hai năm nỗ lực và tuyên bố là đạt một tiến trình lịch sử cho sự đoàn kết của ngưòi dân Eritrea trong một cuộc đối thoại đầy sáng taọ cho cả nước. Ủy Ban Hiến Pháp bao gồm nhiều thành phần tôn giáo, sắc tộc, và địa phương khác nhau. Nhiều văn phòng được thành lập tại năm khu vực trong nước, trong tiến trình này còn có một văn phòng phụ thuộc khác chuyên trách cho 750.000 người Eritrea sống ở hải ngoại.

Uỷ Ban Hiến Pháp chuẩn nhận một chiến lược liên hệ đến một cuộc tham khảo ý kiến công luận sâu rộng nhất, một chiến lược tránh được phương cách từ trên đi xuống. Những cuộc thảo luận được đề xuất qua hàng loạt các hội thảo về công dân giáo dục, thảo luận, hội luận tại các làng và tỉnh đạt được hàng trăm ngàn người tham dự. Bích chương, báo chí, truyền hình và truyền thanh được dùng đễ tạo điều kiện dễ dàng cho việc giáo dục công dân và đối thoại. Trình bày những nguyên tác cơ bản và thảo hiến là đề tài cho những thảo luận của quần chúng và tiền đề sâu rộng khác.

Tại Cambodia, dù không có được một cuộc tham khảo ý kiến công luận sâu rộng tương tự, soạn thảo và chuẩn nhận hiến pháp sau Hòa uớc Paris cũng bao gồm mức độ đối thoại quốc gia cùng với tranh chấp các phe phái trong việc phân chia quyển lực và quyền lợi trong xã hội Cambodia. Lập Hiến tại Nam Phi đem lại một thí dụ rõ hơn về sự hữu ích của cách này. Thí dụ như trong một khoá họp mùa xuân 1995, Quốc Hội Lập Hiến dành nhiều thì giờ để thảo luận để thảo luận dự thảo hiến pháp mới liên quan đến lực lượng an ninh cho Nam Phi, một đề tài quan trọng và gây tranh luận đối với nhóm đối kháng, những người được hình thành trong thời còn xung đột.

Nhiều loại vấn đề nhạy cảm khác – thí dụ như sử dụng quyền trong trường hợp khẩn cấp và những giới hạn, cho phép quân nhân không tuân lịnh thượng cấp khi vi phạm luật quốc tế, kiểm soát dân sự của các lực luợng an ninh -, tất cả những vấn đề này cũng được những kẻ cựu thù, nay ngồi trong Quốc hội, thảo luận, họ gồm đủ thành phần mọi giới từ đại biểu thuộc Đảng Quốc hội Liên Phi (Pan-African Congress) thuộc cánh tả đến Mật Trận Tự Do (Freedom Front) thuộc cánh hữu. Nhiều tham dự viên công nhận rằng chỉ trong một vài năm trước đó những cuộc tranh luận như thế không thể nào nghĩ ra. Tuy nhiên, trong bối cảnh của thời kỳ chuyển tiếp, tiến trình Quốc Hội Lập Hiến dai dẳng đem lại một lộ trình quan trọng cho những người đối nghịch bằng bạo lực trước đây, nay lại thương thuyết và hợp tác trong việc xây dựng từng giai đoạn của trật tự mới.

Triển khai hiến pháp thông qua tiến trình đối thoại quốc gia cũng có những giới hạn nhất định. Một mô hình tương tự về những điều kiện cho đồng thuận xã hội nếu được một nhóm nhỏ đóng kín cửa quyết định và trao cho dân chúng ít hiệu năng hơn. Tiến trình thảo hiến có thể gây bất ổn, thí dụ như trường hợp nếu thời kỳ chyển tiếp quá dài không có luật lệ cơ bản cai trị hoặc là trong thời kỳ chuyển tiếp mà hiến pháp củ được tiếp tục sử dụng, thì sẽ làm cho xung đột trầm trọng hơn.

Đó là trường hợp của Nam Phi khi hiến pháp lâm thời được thương thảo để lập ra một cơ sở chuyển tiếp và một tiến trình dài hơn cho phép thảo luận những vấn đề khó khăn và triển khai tài liệu chung quyết. Hơn nữa, điểm chính phải công nhận là không phải tất cả mọi vấn đề xã hội sẽ được hiến pháp giải quyết. Như đã đề cập trước đây trong vấn đề liên hệ đến toà án, coi lập hiến như một phương tiện giải quyết các khiếu nại từng phe nhóm có thể buộc phải giải quyết đủ loại vấn đề không thích hợp cho tiến trình này. Việc này có thể đem lại kết quả hoặc là các phe nhóm thất vọng để từ bỏ tiến trình hoặc là chấp nhận kết hợp những điều hứa hẹn trong hiến pháp mới mà biết là không thực hiện được, cả hai chỉ làm hại cho sự khả tín của tiến trình và của hiến pháp mới.

Tạo điều kiện căn bản rộng rãi cho xã hội tham gia có nghĩa là làm cho tiến trình này sẽ kéo dài hơn để đúc kết, bao gồm những chi phí hành chánh nặng nề và thảo luận sâu xa, và kết quả là một số thoả hiệp có thể tránh được. Cùng lúc, có thể tạo nên một hiến pháp được hiểu biết và chấp nhận, ổn cố và hỗ trợ cho hoà bình nhiều hơn. Những quyết định liên hệ đến tiến trình sẽ ảnh hưỏng tất yếu đến tính chất của các tranh chấp riêng biệt và những trường hợp của giải pháp.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGOẠI VIỆN

clip_image009

Như đã đề cập, trong khi minh chứng cho một khai nguyên của xã hội dựa trên công lý và uy lực pháp quyền trong thời hậu chiến còn là thách thứ mới, nhưng việc lập thể chế mới, huấn luyện luật sư, chánh án, cảnh sát và tất cả các loại nhân viên khác cần nhiều thời gian. Đây chính là khó khăn đang còn xảy đến.

Trong nhiều trường hợp công lý và hoà giải là giải pháp đạt được nhờ phương tiện của các tổ chức quốc tế. Thí dụ như tại El Salvador là một nước có dân số tương đối ít nhưng lại cảm thấy bị phân hoá để đạt được đồng thuận về các vấn đề vi phạm đã xảy ra trong thời xung đột. Do đó, một Uỷ Ban chân lý LHQ được thành hình hoàn toàn không có người El Salvador tham gia để đảm bảo tính trung lập khách quan, khả chấp và để không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một cơ chế quốc nội nào trong thời kỳ đầu tiên của chuyển tiếp.

Để giải quyết vấn đề nội chiến và diệt chủng tại Rwanda và Nam Tư cũ, Hội Đồng Bảo An LHQ thành lập hai toà án hình sự quốc tế – đây là hai cơ chế đầu tiên thành hình kể từ khi có Toà án Nuremberg từ nửa thế kỷ trước. Nhiều yếu tố ngăn trở cho việc quốc tế hoá cần đáp ứng trong những trường hợp này:

–        tội ác cực kỳ kinh khiếp là một thách thức to lớn cho những nguyên tác luật quốc tế;

–        nhu cầu phục hồi công lý là thành tố thiết yếu trong việc đạt đến hoà giải và phá vờ vòng lẩn quân của bạo lực là quá hiển nhiên; và

–        hệ thống tư pháp quốc nội (đặc biệt là tại Rwanda) hoàn toàn bị hủy diệt.

Hơn nữa, tòa quốc tế có vị thế tốt đẹp hơn toà quốc nội, vì các lý do

–        mang một thông điệp rõ ràng là cộng đồng quốc tế không thể khoan dung các thảm hoạ như thế, hy vọng làm giảm bớt các tội ác này trong tương lai, không phải chỉ tại Rwanda và Bosnia, mà khắp thế giới;

–        được huy động bởi những chuyên gia  có khả năng áp dụng và giải thích các tiêu chuẩn luật quốc tế;

–         có nhiều phương tiện về nhân sự và vật chất cần thiết khả dụng;

–        có chức năng dựa trên cơ sở độc lập trung dung hơn là báo thù, và chức năng này được cảm nhận là được vận hành;

–        thúc đẩy sự phá triển và chấp hành các quy luật hình sự quốc tế; và

–        có quyền tài phán đối với những thủ phạm trong những trường hợp gia trọng nhất khi họ đã trốn ra khỏi nước. Hai toà án này đã đem lại mang đến nhiều tiến bộ quan trọng trong sự hiểu biết và xử lý về tội phạm chiến tranh, tội án chống nhân loại và diệt chủng.

Trong những trường hợp khá hiếm hoi như vậy, tạo cơ chế quốc tế nhằm mang lại ý nghĩa cho công lý là điểm chủ yếu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đây chỉ là giải pháp thứ hai phải chọn lựa. Ngay trong trường hợp của Rwanda và Bosnia, nơi mà việc thành lập toà án hình sự quốc tế là phù hợp, nền hoà bình dài lâu đòi hỏi phải thiết lập thể chế quốc nội vững chắc, trong nội bộ các quốc gia này phải triển khai mọi khả năng nhằm nỗ lực thực hiện công lý và hòa giải. Dù đây gần như là chuyện một phương trình bằng không, sung dụng tương đối các phương tiện ưu tiên đem lại một khẳng định về vai trò quốc tế trong lĩnh vực công lý và uy lực pháp quyền trong thời hậu chiến. Trong khi chi phí đóng góp cho hai toà này lên đến 1 tỷ, kinh phí sử dụng nhằm phát triển các thể chế pháp luật quốc nội thấp hơn.

Nếu vấn đề quy trách và công lý đạt được thông qua toà án hay ủy ban chân lý hay không, nói chung, cả hai vấn đề này sẽ đạt hiệu quả cao nhất qua một tiến trình quốc nội do chính các quốc gia này điều động. Nếu công việc tiến hành phù hợp với tinh thần thượng tôn luật pháp, việc truy tố truớc toà án quốc nội làm gia tăng tính chính thống của chính quyền thời hậu chiến và cơ quan tư pháp có nhạy bén hơn ngưòi ngoại quốc với những đặc điểm của cộng đồng địa phương. Đặc biệt là nhấn mạnh đến vai trò chính quyền trong việc quy trách cá nhân khi vi phạm hình sự và đem lại một nền tư pháp hoạt động trong cảnh giác.

Ngoài ra, nhà nước và các cơ quan sẽ có điều kiện kết hợp các bài học về công lý, trách nhiệm và hoà giải sau những tiến trình quốc nội đầy phấn khởi, khi kết hợp được mọi đại biểu của tất cả các đảng phái. Tiến trình hướng nội cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng hoà bình. Ngược lại, nếu nhà nước giải quyết các nhu cầu phải đối phó vấn đề bằng cách dựa vào người ngoại quốc, thì kinh nghiệm đóng góp cho một nền hoà bình lâu dài và đảm bảo của pháp luật ít hơn (tuy nhiên, vấn đề chính quyền có thể từ bỏ dễ dàng, khi lãnh đạo địa phương càng có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn).

Ủy ban chuyên gia của LHQ khi lập toà án Rwanda công nhận điểm này, họ ghi nhận là tòa án quốc nội nhạy cảm hơn trong những trường hợp cá nhân, có thể đi đến những quyết định có những tác động gây ấn tượng hơn, vì phán quyết giải quyết được vấn đề mà tòa đã quen thuộc với cộng đồng địa phương.

Có hai cách giải thích về sự công nhận ưu tiên tuần tự cho giải pháp tư pháp quốc nội trong tiến trình này. Thứ nhất, từ năm 1995, cũng đã có cơ chế không thuần túy quốc tế thành lập song hành với Ủy Ban El Salvador, hoặc Toà án tại Nam Tư và Rwanda. Khi thấy vai trò quốc tế là cần thiết, thì sẽ có khuynh hướng chung là lập toà hỗn hợp quốc tế và quốc gia, mà giới chức địa phương tham gia chiếm đa số. Những thí dụ kể đến Uỷ Ban chân lý được lập tại Guatemala, hiện cũng đang cứu xét tương tự tại Bosnia, Toà án đặc biệt được đề nghị tại Cambodia và Sierra Léone.

Thứ hai, không giống như toà án quốc tế tại Nam Tư cũ và Rwanda, đem đến quyền tài phán ưu tiên trước khả năng toà án quốc nội trong việc truy tố, Hiệp uớc Rome năm 1998 thành lập Toà án Hình Sự Quốc Tế (ICC) nhằn điều chỉnh thẩm quyền này. Toà ICC nhằm bổ sung thẩm quyền hệ thống tư pháp quốc nội và có thể hành sử thẩm quyền tài phán bổ sung qua các vụ tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội ác chống nhân loại, khi hệ thống tư pháp quốc gia không có khả năng và không muốn làm như thế.

Một khuynh hướng có liên quan đến với sự trợ giúp của hải ngoại mà người ta nhận ra được là trong vụ kiện chống nhà độc tài Chile Augusto Pinochet. Dựa trên sư đồng thuận về nguyên tắc tài phán phỗ quát về một vài tội ác quốc tế, một số quốc gia bắt đầu khẳng định quyền tài phán của toà án quốc gia trước các tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và tra tấn kể cả khi vi phạm trong nội chiến có vũ trang tại một quốc gia thứ hai, mà cả hai thủ phạm và nạn nhân là công dân của quốc gia này. Trong thập niên vừa qua, trường hợp hình sự đã thụ lý tại ít nhất mười một quốc gia nhằm chống lại các dân ngoại quốc vi phạm tội ác chống nhân loại và các vi phạm liên quan bị cáo buộc tại quê hương. Trong một số trường hợp này, các nạn nhân né tránh không muốn hoặc chính quyền không có khả năng truy tố.

Trong trường hợp Pinochet, chánh án Tây Ban Nha tìm cách dẫn độ Pinochet từ Luân Đôn, nạn nhân và chánh án có khả năng buộc ba chính quyền liên quan là Chile, Tây Ban Nha và Anh. Cuối cùng, kết quả chính là chánh án Tây Ban Nha đạt được  những gì mà xã hội Chile đã không tự thực hiện được trong hai thập niên qua là làm bung ra hàng loạt các hoạt động và òa vỡ các cảm xúc tại Chile. Những nỗ lực truy tố Pinochet tại quê nhà, những cuộc điều tra hình sự công khai chống lại một vài người khác, buộc quân đội sau nhiều trì hoãn phải thoả mãn các luật sư nhân quyền, bất đầu xác định điều tra và thông tin về định mệnh của các người mất tích đến mức độ tác đông những vụ án tại hải ngoại, có ảnh hưởng làm kết thúc thời kỳ chuyển tiếp của Chile sang dân chủ. Sau một vài năm  phát triển việc hành sử quyền tài phán phổ quát lại tạo nên một tiến trình khá hỗn độn.

KẾT LUẬN 

Những thách thức mới cho hoà bình đòi hỏi những phương tiện mới. Khi chiến tranh trên khắp mọi nơi trên thế giới thay đổi sự phức tạp, chiến tranh liên quốc gia ngày càng nổi bật hơn, tạo ra tinh thần thượng tôn pháp luật đóng một vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ tái thiết hậu chiến và vãn hồi hoà bình.

Kể cả đến hiện nay có nhiều còn người cho rằng việc đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật là không quan trọng, hoặc tốt nhất chỉ làm thay đổi gián tiếp lối suy nghĩ cho những công việc thực tế để giải quyết xung đột và xây dựng hoà bình thời hậu chiến –  vì họ có niềm tin là áp đặt luật lệ và thể chế sẽ tự nó xoá đi những thù hận sâu xa, và đấu tranh giành quyền lực. Một điều mà không có gì là có thể chính xác.

Uy lực pháp quyền từ trong nền tảng là một vấn đề khó khăn và đặc biệt không có một lượng giá lạc quan về bản chất của con người và triển vọng giải quyết cho xung đột. Chúng ta có thể cho rằng hứa hẹn long trọng hiếu hoà và lập luận hoà giải hiển nhiên là quan trọng cho việc xây dựng hoà bình, nhưng thực ra rất là mong manh.

Trong trường hợp tệ nhất, uy lực pháp quyền đề ra một mạng lưới của thể  chế, cơ chế và thủ tục kiểm soát những nguồn gốc của mọi sự xung đột trong thời kỳ khởi thủy, ngăn ngừa khả năng của mọi phe phái gây những hành vi bạo lực và vi phạm, buộc phải có vụ kiện công khai, và một phạm vi hành động tương đối phù hợp.

Trong trường hợp tốt nhất, khi tinh thần trọng pháp được vun bồi cẩn trọng, một hệ thống quy trách, giải quyết xung đột, giới hạn quyền lực, cơ hội trình bày các quan điểm đối nghịch – nếu tất cả đều được thực hiện qua phương tiện bất bạo động – sẽ trở thành một tập quán tạo điều kiện để ngăn ngừa một cuộc nội chiến khác.

clip_image011

(Hết)

N.J.K.

Dịch giả Đỗ Kim Thêm gửi trực tiếp cho BVN

 

 

This entry was posted in Pháp Luật. Bookmark the permalink.