Tên ông là Nguyễn Kiến Giang, tên một con sông của đất Quảng Bình và con sông ấy lại chảy ngang chính ngôi làng nơi ông sinh ra nhưng tôi lại gọi ông là chú Kiên Giang giống như cách gọi của bố chồng mình. Tôi cũng không hiểu tại sao ông lại gọi như vậy nhưng tôi đoán rằng chữ “Kiên” là kiên cường và chữ “Giang” có nghĩa là con sông, dòng sông. Và, theo cách hiểu của tôi thì chú là một dòng sông kiên cường đúng như tính cách con người chú. Sáng nay ngày 2/12/2013 chú đã về nơi chín suối và đầu giờ chiều tôi mới biết tin-một cái tin không ai muốn nhận dẫu vẫn biết rằng sự sống thì vĩnh hằng còn đời người thì hữu hạn.
Chú Kiên Giang kính yêu ơi! Chiều nay từ đất phương Nam cách xa đất Bắc cả vạn dặm cháu ngồi nhớ lại những lần chú cháu gặp nhau. Lần cuối cùng là hè 2012 ở bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội rồi trước đó là những cuộc thăm viếng ngắn ngủi để cháu được nghe chú kể về những tháng năm đau buồn hay những niềm vui nho nhỏ của một đời cầm bút. Chính những năm tháng này đã tạc nên một “dòng sông kiên cường”- Kiên Giang. Lần nào ngồi bên chú cháu cũng học được nhiều điều. Cháu đã được đọc những trang viết của chú từ những năm tháng chưa có Internet, mọi người phải dấm dúi truyền tay nhau, phải tính toán xem những “tài liệu phản động” ấy đưa cho nhau lúc nào (và ở đâu) thì an toàn… Đọc những kiến thức về văn hóa, chính trị, tôn giáo… mà cứ vụng vụng trộm trộm, mắt nhìn lấm la lấm lét không khác gì phường trộm cắp xấu xa (có đời thủa nhà ai lại vô lý và khổ sở như thế hả chú?) Một người công dân trẻ tuổi như cháu ngày ấy chưa hiểu biết gì về chính trị như bây giờ thế nhưng cháu cứ say sưa đọc “ Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác Lê Nin vào Việt Nam”, “ Khủng hoảng và lối ra”, “ Từ duy tân đến đổi mới”, “Công bằng xã hội và kinh tế”, “ Một cuộc chiến chống lại “phi lý tính”, “ Nhìn nhận thực trạng văn hóa Việt Nam hiện nay”, “ Một quan niệm về hiện đại hóa ở Việt Nam”, “ Đi tìm cách tiếp cận bản tính gốc người Việt”, “ Đời sống tâm linh và ý thức tôn giáo”… Chú đã cho cháu hiểu thế nào là sự thụt lùi của lịch sử với những dẫn chứng sinh động từ bài viết về phong trào Duy Tân với nhận xét đầy giá trị: “ Tuy nhiên, đứng trên bình diện lịch sử mà xét, chỉ riêng việc các nhà nho Duy Tân đề xướng dân chủ, văn minh, dân giàu nước mạnh… giữa một thế giới cạnh tranh quyết liệt, “mạnh được yếu thua”, cũng đủ để coi sự nghiệp của các cụ là một cống hiến vô giá cho công cuộc giải phóng dân tộc và hiện đại hóa đất nước. Cái hay nhất, cái sáng suốt nhất của các cụ chính là ở chỗ kết hợp hai mặt ấy với nhau thành một quá trình thống nhất. Nói cách khác các cụ đã đặt ra được một hệ vấn đề đúng. Và hệ vấn đề ấy vẫn đang đặt ra với chúng ta, sau gần một thế kỷ ”.
Con người chú từ chỗ say sưa với CNCS để rồi từ bỏ chủ nghĩa ấy với bao ĐỚN ĐAU. Chỉ có những người trong cuộc thì may ra mới hiểu hết được sự “đớn đau” này. Những người như cháu nếu có “đau” thì chỉ đau ngoài da, còn cái đau của chú là cái đau cấu từng thớ thịt, cấu nát con tim… bởi thế chú mới chia sẻ “Đó là một cuộc tự lột xác, không phải không đau đớn. Bởi vì khi tôi viết xong để mình từ giã chủ nghĩa xã hội khoa học thì gần như không ăn, uống thì có, vì nó mệt quá… Bởi vì đây là một niềm tin, một cái gì đó rất thiêng liêng, mà tự mình phải lột bỏ đi. Cái đó là một sự đau đớn ghê gớm”.
Chú Kiên Giang ơi, kể từ ngày hôm nay chú không còn phải chịu thêm cái “đau” nào nữa như nhà triết gia kiêm sử gia trứ danh Phùng Hữu Lan đã nói: Hải khoát thiên không ngã tự phi / biển rộng trời cao ta vút bay. Thật lạ kỳ, hai học giả là chú và Phùng Hữu Lan cùng có cuộc đời đầy oan nghiệt. Viết những dòng chữ này cháu nhòe nước mắt. Hình ảnh chú lại hiện về. Cháu xin gửi tặng chú những dòng ghi chép về những cuộc gặp mặt trong quá khứ coi như đây là những lời cuối cùng của chú cháu mình chú nhé. Cho cháu gửi những lời thì thầm trong gió này để nhờ gió cuốn đi đến nơi chú nằm.
…Thưa chú Kiên Giang, chú đã mang tên một dòng sông- một DÒNG SÔNG KIÊN CƯỜNG. Tên tuổi và những đóng góp của chú sẽ được lịch sử mãi mãi khắc ghi. Chú là một DÒNG SÔNG TRI THỨC. Cũng như “Tất cả những dòng sông đều chảy” dòng sông Kiên Giang sẽ mãi mãi không bao giờ ngừng trôi, nguồn tri thức vô giá mà chú để lại cho đời sẽ đi bốn phương trời, sẽ vượt đại dương còn dòng sông Kiến Giang mãi mãi chảy qua ngôi làng của chú ở huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình, nơi có con người thuộc số tri thức hàng đầu Việt Nam đã dâng hiến hết mình để khai sáng và làm gương cho các thế hệ tri thức Việt hôm nay và mai sau.
Vĩnh biệt chú, người con yêu của đất Quảng Bình và của Mẹ Việt Nam.
“ Biển rộng trời cao ta vút bay ” chú nhé!
(Dưới đây BVN xin trích đăng một đoạn trong những trang ghi chép của tác giả về các cuộc gặp mặt ông Nguyễn Kiến Giang)
CUỘC ĐỜI NGHIỆT NGÃ
Hôm qua, chủ nhật ngày 23/5/2004 mình vừa đi Mỹ Tho về Tú (con gái ông NKG – BVN) gọi điện thoại hẹn đưa chú Kiên Giang lại nhà thăm nơi ở cũ của bố Độ và thăm gia đình Trâm Hải. Mừng quá, Hải và mình chạy vội lên khách sạn Equatorial mua bánh mì đen và bánh ngọt, trên đường về mua thêm Jambon, chả lụa, ít trái cây. Chuẩn bị xong xuôi thì vừa lúc gia đình Tú (ông xã và cậu con trai) cùng chú vừa đến nơi. Vừa bước vô nhà, chú hỏi mình: “Trước đây bố cháu ở đâu?”. Mình dẫn chú bước chậm rãi về phía cuối căn nhà. Đây nhà phòng của bố Độ mỗi lần bố vô Nam. Căn phòng đơn sơ với chiếc giường đơn rộng 1,2 m. Phía đầu giường là cái giá đầy ắp sách, kế bên là chiếc bàn gỗ trên để đèn bàn vì bố thường hay ngồi viết ban đêm. Sát lối vào có đặt bộ bàn ghế nhỏ chỉ đủ chỗ cho hai người, là nơi bố thường ngồi đọc sách và uống trà. Chú lặng lẽ nhìn căn phòng còn mình lại nhìn chú, trong đầu nhớ đến câu chú nói với mình hôm bố mất: “Xúc động thì vô ngôn”.
Từ hôm bị ngã, chú đi lại rất khó khăn, ngồi lâu cũng mệt. Ngồi ở phòng ăn không tiện, mình dọn đồ ăn ra phòng khách nơi có bộ salon dựa lưng khá êm. Chú ngồi đó mình mới yên tâm. Vợ chồng mình quý chú nên chủ và khách không mầu mè khách sáo. Chú ngồi chơi, ăn ngon, cứ nói: “Định không ăn uống gì cuối cùng lại ăn no quá…” (chẳng là Tú cốt ý không báo trước, chỉ điện thoại hẹn đến chơi rồi về, không cho mình bày vẽ gì cả). Vừa ăn mọi người vừa nhắc đến cái thời bao cấp. Ngày ấy không mấy khi được ăn no. Ai ai cũng thiếu ăn, ai ai cũng lo toan. Rồi thì thiếu điện, thiếu nước. Thiếu điện thì dùng đèn dầu, thiếu nước thì đêm đêm phải hứng từng giọt. Nói đến đây mấy chú cháu đều nhớ đến câu nói rất phổ biến thời ấy mà ai cũng biết: “Cả nước lo việc nhà, nhà nhà lo việc nước”. Câu chuyện trở nên rôm rả nhất là bàn đến cái ăn. Ngày nay cũng vẫn chủ đề ăn này, hầu hết các bà nội trợ lại thường bảo nhau: “Không biết ăn cái gì?”
Chuyện xưa, chuyện nay đan xen nhau. Cuối bữa ăn chú kể về những ngày đi tù. Chuyện này có liên quan đến vấn đề “Xét lại chống Đảng” mà chú là một trong những người nằm trong cái bản danh sách oan nghiệt ấy. Mình lắng nghe mà tim cứ đập thình thịch. Chú nói chậm rãi về cái quá khứ như ta xem lại một cuốn phim. Họ bắt chú ngày 18/10/1967. Đó là một ngày định mệnh. Chú được thả năm 1976. Rất trớ trêu là khi bắt thì có lệnh, nhưng khi thả thì chẳng hề có một thứ giấy tờ gì. Đúng ngày bắt chú, ông Lê Đức Thọ còn gặp chú và nói rằng: “Đảng không bỏ tù các anh đâu” vậy mà chỉ một tiếng sau đó chú bị đưa lên xe và chuyến “không bỏ tù” ấy dài đằng đẵng hàng chín năm trời… Những ngày trong tù chú bảo đói khổ chú không sợ, mà sợ nhất là quá thừa thời gian, nhưng chú đã biết sử dụng khoảng thời gian ấy để đọc và học thuộc lòng cuốn Bách Khoa Toàn Thư bằng tiếng Nga từ A đến Z. Ngoài ra chú còn dặn gia đình mang cho chú sách toán, lý để chú luyện trí óc: “Buổi sáng lấy toán ra học, đọc bài toán đố, sau đó suy nghĩ cách giải. Đến chiều giở sách ra so sánh kết quả… cứ như vậy để thời gian trôi nhanh”. Mình nghe phục chú quá và còn tự dặn mình phải ghi nhớ kinh nghiệm này để viết lại phổ biến cho nhiều người nghe mà chẳng may thời cuộc đưa đẩy “được” đi tù. Có chi tiết này chú kể nghe thật khôi hài. Đó là có lần chú yêu cầu giám thị nhắn gia đình gửi cho bộ truyện “Chiến Tranh và Hòa Bình”. Họ chẳng hiểu đó là một bộ tiểu thuyết sử thi nên không cho nhận mà còn khuyên chú: “Dính đến chiến tranh và hòa bình phức tạp lắm, anh đừng nên đọc làm gì…” như vậy có những thứ sách họ cho nhận, có thứ không. Kể lại thời đau buồn đầy ẫu trĩ đó chú tâm sự: “Tuy một số anh em có những bất đồng chính kiến, nhưng tất cả không ai đầu hàng hay hóa điên. Đó là tốt lắm rồi!”. Nhắc đến cuốn sách viết gần đây của Vũ Thư Hiên “Đêm Giữa Ban Ngày” chú nói: “Thằng Hiên nó viết ban ngày nhưng đã bao giờ có ban ngày đâu?”. Chú nói xong là cười liền. Thế rồi tiếp luôn: “Chú đang viết cuốn trải và nghiệm , viết được 200 trang rồi khi nào xong sẽ cho Trâm.”
Chuyện đời chú đầy nước mắt. Nhưng những người được biết về cái thời “oan nghiệt và cay đắng” này không nhiều. Lý do là bị bưng bít thông tin.
Nếu kể theo trình tự thời gian tính từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc 1954 cho đến cuối thế kỷ 20 thì cái tội ác này lần lượt sẽ là: Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Xét lại chống Đảng, hậu Nhân văn (vụ án “Về Kinh Bắc”), đàn áp và trừng trị các thành viên của CLB những người kháng chiến cũ (một thời là các đồng chí của Đảng, trong đó nhiều người có chức vụ cao)… Không ai nói ra nhưng trong đầu mỗi người thì đầy rẫy những câu hỏi “ Tại sao? ” và mình lại nhớ đến câu than thở của bố: “ Bây giờ chẳng có lý tưởng gì nữa mà chỉ còn ước mơ thôi! ”. Vâng, ông là tác giả của bài viết cho thanh niên lừng danh một thời: “ Lý tưởng, ước mơ và nghĩa vụ ” bây giờ chỉ còn một vế…
Người lớn thì tâm sự chuyện đời, trẻ con thì vô tư nô đùa. Bữa cơm hôm nay có đủ ba thế hệ. Chủ yếu mình nghe chuyện đời chú và tận tai chứng kiến cái thời đen tối nhất của một con người. Chẳng biết nói gì hơn là thốt lên hai từ ĐAU ĐỚN! (bởi đó là cái thời trẻ trung, xung mãn nhất của một đời người). Đang chuyện buồn thế rồi thoát ra lúc nào không hay. Chú kể chuyện sinh hoạt. Hàng ngày chú vẫn làm việc hai buổi, mỗi buổi 45 phút. Mình chỉ mong sao chú thật khỏe để chứng kiến ngày lịch sử thay đổi, trả lại công bằng cho mọi người, cho những người như các chú. Theo dõi thời sự hàng ngày, chú rất buồn là vừa qua nhà nước làm lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ( 1954 – 2004), họ chẳng nói gì đến tướng Lê Liêm, tướng Đặng Kim Giang. Hai vị tướng trong bộ tư lệnh chiến dịch cùng với tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Hoàng Văn Thái. Chú hay so sánh bố Độ với Tướng Lê Liêm. Chú nhận xét nhiều nhưng mình nhớ nhất là họ có nhiều nét giống nhau: thẳng thắn, chân tình.
Hai người, bố và chú bắt đầu thân nhau từ 1992 và gắn bó suốt 10 năm trời. Hàng tuần cứ thứ sáu chú lại đạp xe đến chơi với bố, ngày nắng cũng như ngày mưa. Đó là những năm tháng chú có nhiều kỷ niệm với bố. Chú bảo: “ Trong hàng ngũ lão thành chỉ có bố cháu là vượt được cái ngưỡng, từ bỏ được CNCS…”
Sài Gòn, 12/2013
N.T.K.T.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Ảnh: Vòng hoa của gia đình tác giả viếng ông Nguyễn Kiến Giang tại nhà tang lễ Phùng Hưng Hà Nội chiều 04/12/2013.