Trung tuần tháng 8/2013, báo chí trong nước đưa tin về phản ứng lo ngại của chính quyền tỉnh Lâm Đồng đối với dự án xây dựng một cơ sở hạt nhân cách trung tâm thành phố Đà Lạt 10 km. Nhìn nhận về nỗi lo ngại trước dự án hạt nhân Đà Lạt – một mắt xích cơ bản trong chủ trương chuẩn bị nhân lực cho các nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) tương lai của Việt Nam – là một dịp trở lại với các câu hỏi: Liệu lựa chọn năng lượng hạt nhân có thực sự hữu ích? Và trong trường hợp bất khả kháng, cần phải hành động như thế nào để ĐHN không trở thành một thảm họa?
Về chủ đề này, Tạp chí Khoa học RFI trước hết xin giới thiệu với quý vị tiếng nói của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn của Nha Kinh tế – Dự báo – Chiến lược của tập đoàn điện lực Pháp EDF. Từ mươi năm nay, Giáo sư Nhẫn dành rất nhiều tâm lực đặc biệt cho việc nghiên cứu về vấn đề ĐHN và năng lượng nói chung, nhằm đưa ra những tư vấn mang tính cảnh báo về nguy cơ của việc theo đuổi con đường phát triển ĐHN một cách mù quáng.
|
RFI: Theo tin trong nước, Việt Nam đang có dự án xây cất Trung tâm nghiên cứu hạt nhân ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, trị giá nửa tỷ USD, do Nga giúp đỡ công nghệ. Giáo sư đã từng nhiều lần lên tiếng về chương trình ĐHN của Việt Nam. Vậy xin Giáo sư cho biết quan điểm về Trung tâm này?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Vì tôi hoàn toàn không đồng ý với chương trình ĐHN của Việt Nam, tôi rất tiếc phải nói rằng việc xây cất Trung tâm hạt nhân ở Đà Lạt, gắn liền với chương trình này, là không cần thiết lắm, phí tiền của dân mà không đem lợi ích gì cho nước nhà. Lẽ cố nhiên, đối với Viện Năng lượng nguyên tử, có trách nhiệm lớn trong chương trình ĐHN, tôi thông cảm với những lý do mà ông Viện trưởng, TS Trần Chí Thành, đã đưa ra. Theo ông Viện trưởng, thì Trung tâm có bổn phận phục vụ các nhà khoa học, các trường đại học và các cơ sở liên quan đến việc khai thác các nhà máy ĐHN.
Ta không có nhân lực thì phải có cơ sở để làm thí nghiệm và đào tạo một số cán bộ ở trong nước, chứ không thể hoàn toàn ỷ lại ngoại quốc, điều ấy dễ hiểu thôi, không có gì đáng trách móc lắm.
Điện hạt nhân đã lỗi thời và rất nguy hiểm
Vì thế trước tiên, cho phép tôi trả lời câu hỏi chính là: Tại sao tôi không ủng hộ chương trình ĐHN?
Từ 10 năm nay, qua trên 40 bài tôi viết và trả lời phỏng vấn, tôi đã có dịp trình bày những lý do tại sao Việt Nam không nên làm ĐHN.
Tôi xin vắn tắt lại như sau: ĐHN đã lỗi thời, không an toàn, rất nguy hiểm cho hàng chục thế hệ con cháu sau này. ĐHN không kinh tế như người ta tuyên truyền láo, nó sẽ đắt hơn năng lượng tái tạo, khi ta xây cất xong các nhà máy. Hiện nay giá thành điện gió ở Âu Châu đã cạnh tranh được rồi.
Điện Hạt Nhân – ĐHN – là Điện Hại Nước, Điện Hại Non. Non Nước và dân ta có tội gì đâu, mà phải sống trong sự đe dọa thường trực của phóng xạ giết người, gây bệnh hoạn suốt đời, sau biết bao tang thương của những cuộc chiến tranh tàn ác để lại. Vì một chiến lược sai lầm, không phù hợp với cuộc cách mạng năng lượng thế giới đang diễn ra (smartgrid, Năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng…), nếu rủi ro, trong chớp nhoáng, Việt Nam có thể bị điêu tàn, kinh tế sụp đổ, ngành du lịch, xuất khẩu tê liệt!
Trở lại vấn đề dự án Trung tâm hạt nhân Đà Lạt. Tại Hội nghị Khoa học và công nghệ Hạt nhân toàn quốc lần thứ 10 vừa diễn ra tại Vũng Tàu, ông Lê Đình Tiến – Thứ trưởng Bộ KHCN – phát biểu như sau: Chúng ta đang thiếu nhân lực, cán bộ năng lượng nguyên tử, cán bộ giỏi về ĐHN. Hiện nay, các cán bộ trong nước đang gặp khó khăn trong việc thẩm định kết quả tư vấn cho hai nhà máy ĐHN ở Ninh Thuận do chúng ta đang rất thiếu chuyên gia, thiếu đội ngũ làm việc cho cơ quan pháp quy để đảm bảo an toàn an ninh cho hạt nhân, thiếu đội ngũ cán bộ xây dựng nhà máy ĐHN. Việc quản lý chất thải nhà máy ĐHN cũng đang là vấn đề quan trọng đang tranh cãi chưa đưa ra được hướng đi.
Như thế thì tại sao ta phải xây dựng cấp bách nhà máy ĐHN ở Ninh Thuận? Rồi xây tiếp một loạt 14 lò đến năm 2030? Chưa gì mà có người đã hãnh diện cho Việt Nam, sẽ được xếp vào hàng thứ 15 trong số 33 nước có ĐHN trên thế giới!
Đầu tư khổng lồ, kết quả mờ mịt
Trên nguyên tắc, với 500 triệu đôla, ta có thể cấp ít nhất 50.000 học bổng cho các kỹ sư đã tốt nghiệp, du học ở ngoại quốc, khỏi cần xây cất Trung tâm này. Tuy nhiên, nếu làm 14 lò với tham vọng xây dựng nền tảng cho một công nghiệp hạt nhân, thì sẽ cần thêm hàng chục tỷ đô la để đầu tư vào nhiều cơ sở nghiên cứu khác, một Trung tâm có nghĩa lý gì?
Diện tích đất trong dự án (Đà Lạt) lên đến 107 ha, tha hồ mà xây cất. Càng nhiều Trung tâm như vậy, giá điện càng tăng nhanh!
Nên biết rằng trước khi EDF (Electricité de France – Công ty điện lực quốc gia Pháp) bắt đầu xây cất các nhà máy ĐHN vào năm 1957, Pháp đã có lò Zoe – EL1 (1948), EL2 (1952). Sau đó, liên tiếp từ 1956 trở đi đến 1978, Pháp không ngừng xây cất gần 30 lò nghiên cứu và đào tạo, rải rác ở nhiều Trung tâm của CEA. Hiện nay chỉ 15 lò nghiên cứu còn hoạt động.
Như thế có nghĩa là, nếu ta quyết tâm chọn con đường hạt nhân, đầy chông gai hiểm trở, theo tôi, hoàn toàn bế tắc, thì ta sẽ phung phí hàng chục, rồi hàng trăm tỷ đôla của dân còn nghèo khổ. Nó sẽ thu hút tất cả nguồn sinh lực và tài chính quốc gia, không cho phép ta đầu tư vào những lĩnh vực then chốt khác: Năng lượng tái tạo, tiết kiệm và tăng gia hiệu suất năng lượng, chưa kể các lĩnh vực ưu tiên, như giáo dục, nghiên cứu, y tế, xã hội… Và ta sẽ càng khó đuổi kịp các nước biết nhìn xa ngó rộng, biết đầu tư đúng nhịp tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày nay.
Chương trình ĐHN Pháp quá mạnh, nay cũng bị kẹt! Pháp muốn khai thác nhanh Năng lượng tái tạo như Đức mà không đủ điều kiện, nhất là về tài chính. Đức rất khôn ngoan, đã tiên phong đầu tư vào lĩnh vực tái tạo từ hơn 20 năm nay!
Pháp: Cường quốc hạt nhân dần chuyển sang năng lượng xanh
Để có một ý niệm về tầm quan trọng của lĩnh vực nghiên cứu hạt nhân, tôi xin phép vắn tắt giới thiệu Trung tâm hạt nhân của Pháp nêu trên: CEA (Commisariat à l’Energie Atomique et aux Energies Alternatives). Hai chữ Energies Alternatives (các năng lượng mới) mới thêm vào cách đây vài năm, chứng tỏ sự chuyển hướng của Pháp trong lĩnh vực năng lượng. CEA, nổi tiếng trên thế giới, có cả thảy 5 cơ sở dân sự (Saclay, Fontenay- aux- Roses, Grenoble, Marcoule và Cadarache) và 5 cơ sở quân sự. Với một ngân sách lên đến 4,7 tỷ euros và 16.000 nhân viên có trình độ rất cao, phục vụ ở 53 đơn vị, CEA hợp tác chặt chẽ với 500 xí nghiệp.
Riêng về CEA Grenoble, trước kia gọi là CENG (Centre d’Etudes Nucléaires Grenoble), được GS Louis Néel, Nobel Vật lý, thành lập năm 1956, tôi được biết rõ hơn cả vì đã tu nghiệp hạt nhân ở nơi đây.
CENG có cả thảy 12 phòng thí nghiệm, dành cho nghiên cứu vật lý cơ bản, vật lý chất rắn, nhiễu xạ nơtron, nhiệt độ thấp, cộng hưởng từ, máy gia tốc. Các phòng thí nghiệm khác đảm trách vật lý hạt nhân, truyền nhiệt, đặc tính hóa học của chất rắn và luyện kim, đặc tính hóa học dưới bức xạ, ứng dụng chất phóng xạ và điện tử. Cộng với 3 lò hạt nhân: Mélusine, Siloé, Siloette, CENG đã đào tạo hàng ngàn kỹ sư cho EDF.
Từ 2002 đến 2012, CEA Grenoble đã phá dỡ 3 lò nêu trên. Vì thế hiện nay, CEA Grenoble hoàn toàn phi hạt nhân và 4 hướng nghiên cứu chính là công nghệ micro-nano, năng lượng mới, công nghệ sinh học và nghiên cứu cơ bản.
Quá trình diễn biến khoa học và kỹ thuật của CENG cho phép tôi nói rằng: Việt Nam đi lùi hơn nửa thế kỷ mà không biết!
Vì cớ gì, người ta đi tới, mình đi lùi, người ta đi ra, mình đi vào?
Lúc bắt đầu chương trình ĐHN, Pháp đã có một nền tảng công nghiệp cơ điện vững chắc, ngoài EDF và CEA. Lực lượng nguyên tử của họ ngày nay có thêm Areva, một xí nghiệp hùng mạnh, bao sân toàn bộ chu kỳ hạt nhân, từ mỏ uranium đến khâu xử lý chất thải phóng xạ. Nên biết rằng từ 1957 đến 2010, Pháp đã đầu tư cả thảy khoảng 300 tỷ đô la vào lĩnh vực hạt nhân dân sự.
Liệu ta có đủ nhân lực và tài chính để ồ ạt xung phong vào một công nghiệp đang xuống dốc mạnh không?
Dù sao, theo tôi, xây dựng Trung tâm hạt nhân Đà Lạt bây giờ thì cũng quá muộn rồi, so với lịch trình của một chương trình ĐHN quá tham vọng của ta, sang năm đã khởi công.
Dân các nước dân chủ thường phản đối cơ sở hạt nhân gần dân cư
RFI: Hiện nay tỉnh Lâm Đồng không đồng ý về việc xây cất Trung tâm ở Đà Lạt, do sợ hạt nhân và có đề nghị nên tìm một địa điểm khác cách xa Đà Lạt 30 km. Xin Giáo sư cho biết suy nghĩ của Giáo sư về vấn đề này?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn: Tỉnh Lâm Đồng không đồng ý thì cũng có lý, tuy mức độ nguy hiểm của Trung tâm thấp hơn nhiều so với lò ĐHN.
Muốn so sánh, lấy ví dụ lò nghiên cứu Triga Đà Lạt 250 kW nhiệt của Mỹ viện trợ năm 1963. Sau đó vào năm 1984, hợp tác với Nga, công suất nhiệt đã được nâng lên 500 kW. Công suất điện lò Ninh Thuận là 1000 MW, tức gần 3000 MW nhiệt!
Rủi ro về ô nhiễm phóng xạ phần lớn là do sự cẩu thả hay sai lầm của nhân viên khai thác. Còn lạ gì về những nhược điểm của ta: Thiếu tác phong công nghiệp, tác phong xã hội, văn hóa an toàn. Thảm họa Tchernobyl hay Fukushima là do ở con người chứ không phải ở thiết bị.
Ngày nay ở các nước dân chủ, nhất là ở Âu Châu, phần đông các thành phố, làng, xã nhỏ hay lớn đều tìm mọi cách để từ chối việc cấp đất để xây cất nhà máy Điện hay cơ sở hạt nhân, dù có mua chuộc họ với tiền bạc đi nữa.
Cũng vì lẽ ấy mà các công ty điện lực như EDF, đề nghị kéo dài thời gian vận hành các lò từ 30 đến 40, 50 hay 60 năm! Theo tôi, gia hạn như thế rất tốn kém và nguy hiểm.
Sở dĩ ngày xưa, các phòng thí nghiệm hạt nhân được xây dựng ở trung tâm thành phố, phần lớn cũng vì các chuyên gia thiếu kinh nghiệm và coi thường mức độ nguy hiểm của phóng xạ. Dân chúng thì không có thông tin chính xác để chống đối mạnh như ngày nay.
Ngay ở CENG tại thành phố Grenoble, ngày 7-11-1967, một thanh nhiên liệu đã bị nóng chảy ở lò nghiên cứu Siloé làm thoát ra 55.000 curies trong hồ nước và 2.000 curies trên khí quyển. Cũng ở Grenoble, tại lò RHF (Réacteur à Haut Flux) của Viện Laue-Langevin, ngày 19-7-1974, 2500 curies Antimoine 124 bị rò rỉ trong hồ nước, gây ô nhiễm ở lớp nước giếng.
Trưng cầu dân ý về ĐHN Việt Nam
RFI: Giáo sư có thêm ý kiến gì vấn đề này?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn: Theo tôi, cần phải có cuộc trưng cầu dân ý về chương trình ĐHN của Việt Nam. Như thế mới là dân chủ!
Timothy Mitchell, Giáo sư Đại học Columbia (New York), trong cuốn sách “Carbon Democracy” (Năng lượng và nền Dân chủ) vừa xuất bản, đã chứng minh sự liên hệ mật thiết giữa dân chủ và năng lượng. Qua các thế kỷ 18, 19 và 20, ta thấy các tập đoàn, xí nghiệp, lobby, giàu mạnh trên thế giới, đã lợi dụng đồng tiền, uy tín và quyền lực của họ, gây áp lực và ảnh hưởng lớn trong cơ cấu chính quyền, các tổ chức xã hội, nghiệp đoàn, để khai thác và phát triển công nghiệp than, dầu, khí, rồi ĐHN.
Sau thảm họa Fukushima, họ thừa biết rằng thời kỳ oanh liệt của hạt nhân đã qua rồi (60 năm tròn, như chu kỳ dài hạn của nhà kinh tế Nga Kondratieff), nên đã mạnh dạn chuyển hướng đầu tư sang Năng lượng tái tạo.
Những nước không muốn trưng cầu dân ý, che đậy thông tin chính xác về ĐHN, sẽ làm mất giá trị và ý nghĩa của hai chữ dân chủ. Ở Pháp, nhờ sự tranh đấu vững mạnh của các tổ chức phi chính phủ (ONG), giai đoạn xấu xí này đã chấm dứt từ lâu.
Bài học đi trước thời đại của nước Áo
Nước Áo đã cho thế giới một bài học dân chủ có một không hai trong lĩnh vực ĐHN, mà ít người biết đến. Từ 1972 đến 1977, nước này xây cất xong nhà máy ĐHN Zwentendorf (lò nước sôi BWR 730 MW), cách thủ đô Vienne 60 km, cạnh bờ sông Danube. Ngay sau đó, trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1978 (tức trước sự cố Three Miles Island ở Mỹ năm 1979), số phiếu chống ĐHN thắng với tỷ số eo hẹp 50,5%! Tuy vậy, chính phủ vẫn ra lệnh tuyệt đối cấm không cho nhà máy này vận hành! Nó đã trở thành một Viện bảo tàng và cũng là một địa điểm đang sản xuất điện mặt trời! Đáng phục hơn nữa là năm 1999, luật ghi rõ trong hiến pháp – Nước Áo không hạt nhân – được quốc hội đồng thanh biểu quyết.
Sau thảm họa Fukushima, tỷ lệ số dân Áo chống ĐHN vọt lên 80% và người cầm đầu nước này, Werner Faymann, đã long trọng đề nghị Cộng đồng Âu Châu nên từ bỏ ĐHN và đầu tư mạnh vào Năng lượng tái tạo.
Theo tôi, chỉ có Năng lượng tái tạo (không tốn tiền nhiên liệu, đừng bao giờ quên!) mới đem lại độc lập, hòa bình và dân chủ cho thế giới.
Mỗi lò hạt nhân sẽ làm ta kẹt ít nhất 50 năm để khai thác và 50 năm để tháo gỡ. Đó là chưa kể phải tiếp tục quản lý chất thải phóng xạ suốt hàng trăm thế kỉ liên tiếp!
Nếu một tai nạn lớn như thảm họa Tchernobyl hay Fukushima xảy ra trong số 14 lò sẽ được xây cất ở các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Hà Tĩnh, thì lãnh thổ ta sẽ lâm nguy và bị cắt làm đôi, do phóng xạ bao trùm cả miền Trung. Dân chúng sẽ di tản ở đâu? Chất thải phóng xạ giết đồng bào ngàn năm vẫn còn đó.
Ta đừng vội quên Fukushima. Chất độc phóng xạ tiếp tục tung hoành cả khu vực rộng lớn xấu số này. Hiện nay, Tepco đang gặp cơn khủng hoảng hết sức trầm trọng. Mỗi ngày Tepco tiếp tục đổ ra Thái Bình dương trên 300 tấn nước bị ô nhiễm! Chính phủ Nhật đang hoang mang, vì những thùng chứa 200.000 tấn nước nhiễm phóng xạ đe dọa bị nứt. Vừa qua, 300 tấn nước rất độc hại đã thoát khỏi một thùng nước bị hỏng. Sự cố đã được nâng lên cấp số 3 trên thang INES (International Nuclear Event Scale). Tepco cũng như Rosatom của Nga đã nhiều lần bị chỉ trích về sự thiếu nghiêm túc và nói láo, ta cứ tin tưởng ở hai chữ an toàn của họ thì có ngày sẽ thất vọng và hối tiếc.
Nước Áo vô cùng sáng suốt đã hỏi ý kiến dân trước khi xảy ra 3 biến cố khủng khiếp nhất: Three Miles Island, Tchernobyl và Fukushima.
Vì vận mệnh thiêng liêng của tổ quốc và sự sống còn của đồng bào, một lần nữa, tôi thiết tha đề nghị Chính phủ Việt Nam tổ chức gấp một cuộc trưng cầu dân ý, trước khi khởi công. Nếu không, những ai lấy quyết định hôm nay, ngày mai đâu còn đó mà chịu trách nhiệm với non sông?”.
An toàn là đòi hỏi số một
Trở lại với chủ trương xây dựng một trung tâm hạt nhân tại Đà Lạt. Ngoài các mục tiêu nghiên cứu cơ bản và sản xuất các đồng vị phóng xạ phục vụ cho y tế và một số ngành kinh tế, dự án Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân Đà Lạt nằm trong chương trình đào tạo nhân lực cho kế hoạch phát triển ĐHN tại Việt Nam, trước mắt với việc xây dựng hai nhà máy hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận, với công nghệ và tín dụng của Nga và Nhật Bản, dự kiến sẽ bắt đầu cung cấp điện từ năm 2020. Việc khởi sự một trung tâm đào tạo nhân lực hạt nhân vào thời điểm sắp khởi công xây dựng nhà máy hạt nhân đầu tiên (năm 2014) cho thấy Việt Nam đang lúng túng trong chủ trương phát triển năng lượng hạt nhân, mà việc đào tạo vốn có những đòi hỏi rất cao. Một số nhà quản lý và chuyên gia trong nước cảnh báo, một mặt, Việt Nam chưa xây dựng xong chương trình đào tạo ở bậc đại học cho các ngành nghề trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử – với ước tính cần khoảng hơn 4.000 kỹ sư, chuyên viên… từ sau năm 2020 -, mặt khác, các ngành học này khó thu hút được sinh viên, đặc biệt các sinh viên có năng lực khá, giỏi.
Bên cạnh những ý kiến phê phán triệt để chủ trương phát triển ĐHN như của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn trong phần trình bày phía trên, tại Việt Nam, sau khi chương trình hạt nhân chính thức được thông qua, một số chuyên gia trước có quan điểm phản đối, nay chấp nhận chủ trương chính thức của Nhà nước, nhưng tiếp tục bảo vệ quan điểm: Để ĐHN không trở thành một tai họa, điều tiên quyết số một là phải đào tạo được một đội ngũ nhân lực đủ để tham gia xây dựng, vận hành và bảo đảm an toàn các nhà máy trong tương lai.
Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị tiếng nói của Giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên viện phó Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, hiện là Chủ tịch Hội đồng khoa học Cục Kiểm soát và an toàn bức xạ, hạt nhân Việt Nam.
|
Phỏng vấn với Giáo sư Phạm Duy Hiển 04/09/2013 |
Giáo sư Phạm Duy Hiển: “Sau tai nạn Fukushima, thì trên thế giới có tổng kết lại là tại sao nó xảy ra. Thì người ta rút ra mấy cái kết luận như thế này: Cái an toàn của ĐHN nó không phải là tự trong máy móc thiết bị đã được cài sẵn, mà vấn đề là cái an toàn đó nó được thể hiện qua đội ngũ về chuyên môn cũng như về quản lý. Do đó cho nên, Việt Nam muốn làm ĐHN, thì như chúng tôi đã nói rất nhiều lần là cái công tác đào tạo con người là việc hết sức quan trọng. Mà tôi nghĩ rằng Nhà nước cũng đã quan tâm đến chuyện đó. Do đó cho nên, việc xây dựng cái trung tâm nghiên cứu hạt nhân, với Trung tâm nghiên cứu hạt nhân cái lò phản ứng công suất hơn 10 MW là nằm trong chủ trương ấy.
Hiện nay, Nhà nước, Quốc hội rất muốn là có ĐHN sau 2020, nhưng mà trên thực tế tiến độ đó là khó thực hiện được, bởi vì ngay đến bây giờ phía Việt Nam vẫn chưa nhận được những tài liệu thiết kế cần thiết, thậm chí những tài liệu kỹ thuật, luận chứng của các đối tác cũng chưa có. Là bởi vì, như tôi nói nhiều năm trước, việc làm ĐHN không đơn giản như thế, như khi ta quyết định xây dựng một nhà máy đóng giày… Đặc biệt sau vụ Fukushima, mọi người đều thấy rằng an toàn ĐHN là vấn đề rất lớn.
Nhân lực có trình độ cao không chỉ trong kỹ thuật mà cả trong quản lý
GS Phạm Duy Hiển: Cho nên không thể làm mà đốt cháy giai đoạn được. Thực chất vấn đề này chúng tôi đã dự đoán trước từ nhiều năm, thậm chí từ cách đây 10 năm. Thế và cũng căn cứ vào tình hình chung ở rất nhiều nước trên thế giới, nói chung trong thời gian những năm gần đây, có lẽ loại trừ Trung Quốc là một nước có lẽ cũng đặc biệt, còn tất cả các nước khác làm ĐHN đều trễ tiến độ, so với lại dự kiến ban đầu, thậm chí trễ rất nhiều. Tất cả đều là do chuyện con người bây giờ, người ta lo cho chuyện an toàn, không thể chấp nhận, không thể bỏ qua bất cứ sai sót nào. Và cái đó nó cũng đặt ra một thách thức cho Việt Nam. Là muốn làm được như vậy, thì phải có đội ngũ, phải có những người am hiểu, chứ không phải lúc nào cũng thuê nước ngoài được cả.
Thế thì trở lại vấn đề nhân lực cho Việt Nam. Nhân lực có trình độ cao không phải chỉ trong lĩnh vực học thuật, chuyên môn, kỹ thuật, mà còn cả về quản lý, lo lắng cho công tác an toàn. Và việc chỉ đạo, lãnh đạo từ phía cấp cao của Nhà nước. Chúng ta thấy, như vụ Fukushima hiện nay. Ngay vụ rò rỉ phóng xạ, Thủ tướng chính phủ phải đứng ra giải quyết.
Đội ngũ nhân lực chưa sẵn sàng thì chưa thể xây dựng và vận hành nhà máy ĐHN
GS Phạm Duy Hiển: Bây giờ gần đây nói thêm, cũng có chuyện là trong nước cũng có chính sách là tuyên truyền cho người dân biết về ĐHN. Nhưng mà các nước người ta tổng kết về tuyên truyền như thế này: Anh tuyên truyền cho ĐHN, thì anh không thể nói được là ĐHN là an toàn, vì nó không đúng nữa rồi. Khắp nơi nó xảy ra chuyện này, chuyện khác, nhất là vụ Fukushima. Tuyên truyền (thực chất) cho ĐHN thì phải nói như thế này: “Bà con hãy tin tưởng vào chúng tôi! Chúng tôi sẽ cố gắng làm cho ĐHN an toàn đến mức có thể được”. Đấy là câu tổng kết mà tôi cho là rất có giá trị.
Như vậy có nghĩa là, thực chất mọi người phải làm thế nào để cho nó an toàn, và tuyên truyền có nghĩa là thể hiện cho đồng bào, nhân dân thấy là chúng tôi đã cố gắng hết sức để làm cho nó an toàn. Đó là tình hình của Việt Nam ta hiện nay, khi đã có quyết định là làm ĐHN, thì có lẽ cách tốt nhất là phải nói như vậy.
Mà nói như vậy có nghĩa là phải có hành động. Có hành động là mọi biện pháp để có được đội ngũ bảo đảm an toàn cho ĐHN. Tôi nói với tư cách của một người được giao nhiệm vụ làm ngành hạt nhân này từ 35 năm nay ở trong nước. Trước đây tôi không có nhất trí với việc làm sớm và làm ồ ạt ĐHN, nhưng bây giờ một khi chính phủ đã quyết, thì chúng tôi phải nói rất mạnh đến vấn đề là nhân lực của ta chưa thật sẵn sàng và phải hết sức tập trung vào đào tạo được nhân lực đó. Và chừng nào đội ngũ nhân lực đó mà chưa sẵn sàng, thì chưa có thể làm, chưa có thể cho vận hành, xây dựng nhà máy ĐHN được.
—-
Trong nhiều năm, trước khi được Quốc hội thông qua, chương trình ĐHN của Việt Nam bị nhiều ý kiến phê phán dữ dội của các chuyên gia trong và ngoài nước, về mặt nguyên tắc. Sau khi đã trở thành một chủ trương chính thức tại Việt Nam vào năm 2009, chương trình phát triển ĐHN tiếp tục bị chỉ trích trong vận hành cụ thể, đặc biệt sau khi giới chuyên gia thu nhận được rất nhiều bài học đắt giá về những sai lầm của con người trong việc quản lý phóng xạ sau thảm họa Fukushima. Sự lúng túng của chính phủ trong việc thực hiện chương trình phát triển ĐHN như dự kiến là một dịp để đặt lại vấn đề: Trong bối cảnh tổng mức tiêu thụ điện toàn quốc thấp hơn nhiều so với dự kiến, liệu việc phát triển cấp tốc năng lượng hạt nhân có cần thiết? Bên cạnh đó, nếu tổ chức được việc tiết kiệm điện thực sự hiệu quả và kiên quyết phát triển mạnh các loại năng lượng tái tạo, liệu Việt Nam có thể thu hẹp quy mô của ĐHN?
Để có cơ sở đưa ra được những câu trả lời thỏa đáng cho những vấn đề kể trên, nhiều nhà khoa học cho rằng cần phải có những tính toán về dự báo tiêu thụ điện và phương hướng tiết kiệm điện, phát triển các năng lượng xanh mang tính minh bạch và khách quan hơn hiện nay.
Các bài liên quan
Giáo sư Phạm Duy Hiển: Việt Nam cần xét lại chính sách phát triển điện hạt nhân
Việt Nam nên dừng chương trình điện hạt nhân
Kiểm soát hiểm họa hạt nhân: Các câu hỏi từ khủng hoảng Fukushima
Phóng xạ hạt nhân tác động thế nào đến sức khỏe?
|
|
T.T. – N.K.N. – P.D.H.