Hội thảo nhân kỷ niệm 10 năm Bàn Tròn Ba Lan tại Đại học Michigan, Hoa Kỳ
7-10/4/1999
Dịch giả: Nguyễn Quang A
Sự sụp đổ được dàn xếp của chế độ cộng sản:
Các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan năm 1989,
Hội nghị tại Đại học Michigan 07-10 tháng 4 năm 1999
Bản gỡ băng các bài phát biểu tại Hội nghị
Gỡ băng: Kasia Kietlinska và Margarita Nafpaktitis
Dịch sang tiếng Anh: Kasia Kietlinska
Biên tập: Donna Parmelee
Chuyển sang dạng Web: Libby Larsen và Donna Parmelee
|
Thứ Tư 7 Tháng Tư, 1999
I. Ý NGHĨA CỦA BÀN TRÒN BA LAN
20:00
Chiếu phim:
Một video giới thiệu cho hội nghị do Piotr Bikont và Lawrence Weschler làm.
Các diễn giả (panelist):
· Wieslaw Chrzanowski, Giáo sư Luật tại Đại học Công giáo Lublin, nhà hoạt động Đoàn kết, nguyên đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Liên minh Thiên Chúa giáo Quốc gia (1989-1994)
· Adam Michnik, Tổng biên tập báo Gazeta Wyborcza, nhà hoạt động Đoàn kết, nhà hoạt động nhân quyền, tham gia Bàn Tròn cho phe đối lập.
· Thủ tướng Mieczyslaw Rakowski, Tổng biên tập báo Polityka (1958-1982), ủy viên Ban chấp hành Trung ương (1975-1990) và Bí thư thứ nhất (1989-1990) của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, Thủ tướng Chính phủ (1988 – 89).
Thảo luận và điều phối viên (moderator):
· Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
(Văn bản chữ nghiêng được dịch từ tiếng Ba Lan)
Điều phối viên (moderator):
· Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
“Sự sụp đổ được dàn xếp của Chế độ Cộng sản: Bàn Tròn Ba Lan năm 1989, Nhìn lại sau Mười năm – Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Round Table of 1989, Ten Years Later” là một hội nghị học thuật. Hội nghị này được thiết kế để làm rõ ý nghĩa và các bài học của các cuộc đàm phán này trong năm 1989 mà đã mang lại thay đổi cơ bản nhưng hòa bình cho Ba Lan và đã tạo cảm hứng cho diễn biến tương tự khắp khu vực và trên toàn thế giới. Tôi chào đón các bạn vào buổi đầu của cuộc thăm dò kéo dài bốn ngày này. Tên tôi là Michael Kennedy và tôi là một trong những người tổ chức hội nghị này.
Thay mặt cho ban tổ chức từ Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu tại Đại học Michigan, tôi muốn cảm ơn công khai một số người và đơn vị. Hiệu trưởng Lee Bollinger, Giám đốc Nancy Canter và các văn phòng của họ đã hỗ trợ ban đầu khiến cho hội nghị này có thể. Chúng tôi rất biết ơn họ và Giám đốc Canter đang có mặt ở đây, xin cảm ơn rất nhiều. Nhiều đơn vị khác của Đại học được liệt kê trong chương trình của các bạn cũng đã đóng góp, khiến cho đây thực sự là một sự kiện toàn Đại học. Tôi cũng muốn cảm ơn các nhà tài trợ công ty ở đây, American Airlines, hãng hàng không Ba Lan LOT, McKinley Associates / Ron and Eileen Weiser, Miller, Canfield, Paddock and Stone, P.L.C. và Video Studio Gdansk, Quỹ Earhart, và Quỹ Kosciuszko cũng như Bob Donia và Monika và Victor Markowicz cũng đã giúp làm cho sự kiện đặc biệt này có thể. Xin cảm ơn rất nhiều, cảm ơn tất cả.
Đây là một hội nghị học thuật không bình thường, bởi vì hầu hết các diễn giả của chúng tôi không phải là các học giả. Tất cả các diễn giả của chúng tôi là những người đã tham gia sâu vào chính trị, mặc dù từ các vị trí rất khác nhau trong phổ chính trị. Các học giả không phải là các nhà diễn giải duy nhất của lịch sử, và đặc biệt là hầu hết họ không phải là những người làm nên lịch sử. Những người chúng tôi mời dự hội nghị này đã làm nên lịch sử, và chúng tôi đã mời họ ở đây để họ có thể xem xét lại sự can dự của mình với các cải cách và sau đó sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Ba Lan, và rộng hơn ở Đông Âu và Liên Xô.
Tôi rất tiếc là, diễn giả đầu tiên của chúng ta không thể có mặt với chúng ta tối nay. Thượng nghị sĩ Carl Levin, Thượng nghị cao niên của Bang Michigan, ông đã báo cho chúng tôi vào thứ Hai rằng ông không thể đến. Tuy nhiên, ông đã gửi một lá thư, mà tôi muốn đọc cho các bạn. Ông viết:
“Tôi rất tiếc không thể tham dự hội nghị “Sự sụp đổ được dàn xếp của Chế độ cộng sản” của Đại học Michigan. Tôi sẽ cùng đi với Bộ trưởng Quốc phòng Bill Cohen trong một chuyến thăm tới trụ sở NATO ở Brussels, Bỉ, và căn cứ không quân Aviano ở Aviano, Ý. Có lẽ tất cả mọi người tham dự hội nghị này sẽ hiểu rằng thách thức NATO đang phải đối mặt ở Kosovo đến mức mà, với tư cách thành viên cao cấp của Ủy ban Quân vụ, tôi phải chấp nhận lời mời của Bộ trưởng Cohen để tham gia với ông. Những người Mỹ gốc Ba Lan và không gốc Ba Lan cũng như nhau trong nhiều thập kỷ đã giương cao ánh sáng tự do cho Ba Lan và Đông Âu thấy. Sau khi thiết quân luật được áp đặt ở Ba Lan và [Công đoàn] Đoàn kết bị cấm vào đầu những năm 80, giữa các hành động khác chính phủ Mỹ đã đình chỉ các đặc quyền hàng không dân dụng của Ba Lan tại Hoa Kỳ, từ chối gia hạn hạn mức tín dụng xuất nhập khẩu cho chính phủ Ba Lan, từ chối việc nhận Ba Lan trở lại Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đình chỉ Tình trạng Tối huệ quốc của Ba Lan. Chỉ khi Lech Walesa và các nhà cải cách ủng hộ việc tái can dự thì chúng tôi mới đã làm như vậy, và sau đó năm 1987, Hạ viện đã trực tiếp dành tiền cho Đoàn kết. Tháng Hai năm 1988, tôi đã vinh dự gặp các nhà lãnh đạo Ba Lan ở Warsaw và Gdansk, bao gồm Mieczyslaw Rakowski, Lech Walesa, Jacek Kuron, và Adam Michnik. Cuộc viếng mộ cha Popieluszko đã khiến tôi hết sức xúc động. Bây giờ, thật kỳ diệu Ba Lan tự do, độc lập và là một phần của NATO. Một vài tuần trước, tại Thư viện Truman ở thành phố Independence [bang Missouri, quê của Tổng thống Truman], khi Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc gửi văn kiện gia nhập NATO của họ, Bộ trưởng Ngoại giao Geremek đã nói như sau: “Buổi lễ hôm nay xác nhận rằng Liên minh là một cộng đồng các giá trị. Sự thành công của NATO trong năm mươi năm qua đã dựa trên các nguyên tắc dân chủ, dân quyền và quyền tự do, được chia sẻ bởi tất cả các thành viên của nó. Các quốc gia tham gia cộng đồng này hôm nay đã bị từ chối những giá trị đó cho đến năm 1989. Trên các đường phố của Budapest năm 1956, của Praha năm 1968, và của Gdansk năm 1970 và 1981, họ đã phải trả một cái giá đắt. Họ đã chứng tỏ các chứng chỉ dân chủ của mình mà cho họ quyền được có mặt ở đây ngày hôm nay”. Hãy chuyển lời chúc mừng của tôi đến những người Ba Lan tham dự hội nghị về việc gia nhập gia nhập NATO của họ, và lòng biết ơn sâu sắc của tôi vì sự ủng hộ kiên định của Ba Lan đối với những hành động của NATO liên quan đến Kosovo. Một trong những cân nhắc chính của tôi trong thời gian đánh giá của Thượng viện Hoa Kỳ về vấn đề mở rộng NATO năm ngoái đã là, liệu Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc có ở vị thế để đẩy mạnh các nguyên tắc cơ bản của NATO về dân chủ, tự do cá nhân và pháp trị hay không. Các đồng nghiệp Thượng viện của tôi và tôi đã quyết định với một đa số áp đảo rằng ba nước này ở vị thế như vậy. Tôi tự hào rằng ngày nay Hoa Kỳ và Ba Lan kiên định đứng lên bảo vệ quyền của người Albania ở Kosovo để thực hiện những nguyên tắc này. Lời chúc tốt đẹp nhất của tôi cho hội nghị thành công. Các bạn và đồng nghiệp của các bạn đã thực hiện bước giàu trí tưởng tượng nhất trong phân tích các sự kiện lịch sử của chỉ vài năm trước đây, các sự kiện mang tính lịch sử và có tầm quan trọng siêu việt đối với quyền tự do của người Ba Lan và người dân ở khắp mọi nơi. Trân trọng, Carl Levin”.
Những tiến triển lịch sử này mà tạo khung bức thư của Thượng nghị sĩ Levin, một mặt, việc mở rộng của NATO, và mặt khác, sự tan rã của Đông Nam Âu, có lẽ có thể được xem như cái nền đương đại cho một số câu hỏi mà chúng ta thảo luận trong hội nghị này. Chắc chắn, hội nghị của chúng ta đựa trên tiền đề về ý tưởng rằng biến đổi căn bản có thể được thực hiện không chỉ bằng bạo lực, mà cả bằng cách hòa bình nữa. Nhưng tôi phải nhấn mạnh rằng đây không phải là một cuộc hội nghị về chính trị đương đại ở Ba Lan hay Nam Tư. Nó là về những diễn biến bất ngờ của năm 1989.
Tôi sử dụng từ “bất ngờ-contingency” để nhấn mạnh một trong những nguyên tắc tổ chức hội nghị này. Ai có thể tưởng tượng trong năm 1979 rằng vào năm 1989 cộng sản sẽ sụp đổ ở Đông Trung Âu? Ai có thể tưởng tượng trong năm 1989 rằng bạo lực, như chúng ta đang thấy ở Đông Nam Âu, sẽ áp đảo khu vực trong mười năm tới? Và những gì trong tương lai? Sự bất ngờ có nghĩa là chúng ta không thể nghĩ về tương lai như một sự kéo dài trơn tru của hiện tại. Các sự kiện có thể biến đổi cấu trúc lâu bền nhất, và các sự kiện có thể được tạo ra nhờ hành động chiến lược. Sự lựa chọn của người dân có thể định hình các sự kiện, và chúng, đến lượt, có thể chuyển hướng tiến trình lịch sử.
Các cuộc đàm phán thuộc mọi loại, và đặc biệt là các cuộc được thực hiện tại Bàn Tròn Ba Lan năm 1989, minh họa tầm quan trọng của sự lựa chọn và chiến lược trong việc tạo ra các kết quả quan trọng. Sự lựa chọn của chính quyền cộng sản và Đoàn kết để đàm phán trong năm 1988 là một trong những quyết định có hệ quả quan trọng nhất mà người ta có thể tưởng tượng cho lịch sử thế giới. Sự bất ngờ đã không dừng ở đó. Các cuộc đàm phán đã có thể sụp đổ, và chắc chắn ít người đã dự đoán rằng các cuộc bầu cử tháng 6-1989 sẽ tạo ra chiến thắng áp đảo cho Đoàn kết, và sự thất bại đến vậy cho chính quyền cộng sản. Và trong mùa hè năm 1989, hầu hết mọi người đều cho rằng Ba Lan sẽ vẫn bị các chế độ cộng sản bao quanh. Thay vào đó, Ba Lan đã chứng tỏ là tia lửa cho sự sụp đổ được dàn xếp của các chế độ cộng sản trong khu vực.
Hội nghị này bắt đầu với ý tưởng rằng sự lựa chọn của người dân trong một số trường hợp, tất nhiên, có thể chứng tỏ có hệ quả quan trọng đối với lịch sử thế giới. Chúng tôi muốn tập trung vào những sự lựa chọn và những chiến lược đã dẫn đến sự sụp đổ được thương lượng của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng khi nào và làm thế nào mà người Ba Lan, hoặc ít nhất một số người Ba Lan, có được ý tưởng rằng họ có thể đàm phán sự biến đổi cơ bản của chủ nghĩa cộng sản? Câu trả lời cho câu hỏi đó là không đơn giản chút nào.
Nhiều người trong số các bạn đã thấy rõ sự phức tạp của các vấn đề xung quanh câu hỏi có vẻ vô hại đó. Những người ít quen với lịch sử và chính trị Ba Lan trong số các bạn có thể không nhận ra câu trả lời và các tiền đề của câu hỏi là phức tạp đến thế nào. Bất kỳ tường thuật nào về sự sụp đổ của chế độ cộng sản do đàm phán đều phải gắn kết mật thiết với câu chuyện (narrative) lớn của lịch sử. Có nhiều câu chuyện để kể và rõ ràng chúng ta chẳng thể tìm được cách để kể tất cả chúng. Tuy vậy, chúng tôi đã lắp ghép hai cách để các bạn thấy rõ các sự kiện lịch sử đó.
Craig Borum đồng nghiệp của tôi từ trường Kiến trúc, một nhóm sinh viên, và các thành viên của Ban tổ chức đã tập hợp một cuộc triển lãm để bạn có thể xem tại tầng tư của [tòa nhà] Rackham. Triển lãm đó mang tên “Tạo một không gian cho lịch sử.” Triển lãm đó thách thức bạn để nhận ra các diễn ngôn khác nhau, các câu chuyện khác nhau, thông qua đó truyện về Bàn Tròn có thể được kể. Chúng tôi mời các bạn xem cuộc triển lãm này và chia sẻ với chúng tôi suy nghĩ của các bạn tại một trong các bàn ở phòng đó. Hãy xem brochure để biết giờ mở cửa. Chúng tôi cũng cho bạn một giới thiệu lịch sử phần nào tiện lợi hơn, có thể độc đáo hơn và chắc chắn hiện thời hơn.
Ngay bây giờ chúng tôi rất vui để có thể chia sẻ với các bạn một bộ phim hai mươi sáu phút của Piotr Bikont và Lawrence Weschler về nguồn gốc lịch sử của các cuộc đàm phán lịch sử. Đây là một bộ phim rất đặc biệt, vì nó đã không được trình chiếu trước công chúng. Nó đã được thực hiện hoàn toàn cho hội nghị này. Và vì vậy tôi chào đón các bạn xem bộ phim này.
CHIẾU PHIM
Moderator:
Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
Tôi muốn cảm ơn Piotr Bikont và Lawrence Weschler, và Video Studio Gdansk rất nhiều vì đã làm bộ phim này đặc biệt cho hội nghị của chúng ta. Tôi nghĩ một trong những điều mà bộ phim này cho thấy, là có những câu chuyện kể rõ ràng Bàn Tròn là về những gì, nó đã được thực hiện ra sao, nhưng có nhiều câu chuyện khác nhau có thể được kể không chỉ về Bàn Tròn đã được thực hiện thế nào mà cả ý nghĩa của quyết định được thương thảo là gì. Các diễn giả mà chúng ta thấy ở đây tối nay sẽ trình bày những diễn giải khả dĩ khác về các cuộc đàm phán Bàn Tròn này, nhưng trước khi chuyển sang giới thiệu họ một cách thích hợp, hãy để tôi nói vài lời và trả lời một trong những câu hỏi mà, nếu tôi có thể nói, đã từng đeo đẳng tôi từ khi chúng tôi bắt đầu dự án này.
Tại sao Đại học Michigan lại tổ chức một hội nghị về đàm phán Bàn Tròn Ba Lan năm 1989? Đó là câu hỏi mà các phương tiện truyền thông Ba Lan, các công dân Ba Lan và người Mỹ gốc Ba Lan xa lạ với truyền thống của Đại học Michigan thường đặt ra cho tôi. Các đồng nghiệp và sinh viên của tôi ở trường Đại học này không đặt ra câu hỏi đó. Họ quen với vai trò trung tâm của nghiên cứu Ba Lan và chương trình ở đây. Nhiều bộ môn, trường và tổ chức của chúng tôi có quan hệ thường xuyên và đáng kể với các học giả, các tổ chức, và xã hội Ba Lan. Chúng tôi cũng đã có truyền thống phong phú về các bài giảng Copernicus mà chúng tôi dựa vào. Các giảng viên đã bao gồm các nhân vật nổi tiếng như Leszek Kolakowski, Czeslaw Milosz, Stanislaw Baranczak, Zbigniew Brzezinski, Jacek Kuron, Krzysztof Penderecki, Henryk Górecki, Krzysztof Zanussi, Ryszard Kapuscinski, và Ewa Hoffman. Nhưng trong năm 1999 tại sao lại chú tâm vào Bàn Tròn Ba Lan năm 1989?
Chúng tôi đã hình dung về hội nghị này rồi vào mùa hè năm 1997. Vào lúc đó, những dự tính về kỷ niệm mười năm sự sụp đổ của chế độ cộng sản đã được chuẩn bị sẵn sàng. Thường xuyên nhất chúng bị làm sai lạc đi trong hình ảnh của sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Hình ảnh là khá quan trọng vì chúng ta hiểu 1989 là năm mà những người Đức báo hiệu mong muốn của họ để trở thành một dân tộc, và những sự chia rẽ chiến tranh lạnh của châu Âu có thể được khắc phục. Mà hình ảnh đó cũng khá thích hợp vì hệ thống cộng sản bị khủng hoảng và đã sụp đổ khá dễ dàng ở Tiệp Khắc và Đông Đức. Nhưng năm 1989 đã không bắt đầu vào tháng Mười. Những thay đổi đã diễn ra trong năm 1989 ở cả Ba Lan và Hungary là then chốt đối với những biến đổi tiếp theo của phần còn lại của thế giới cộng sản. Các cuộc cách mạng được thương lượng của họ đã dẫn đến sự sụp đổ được dàn xếp của thế giới cộng sản trong khu vực. Đặc biệt, cuộc đấu tranh và đổi mới chính trị của Ba Lan đã đặt nền móng cho sự thay đổi. Bàn Tròn đã trở thành một mô hình chuyển đổi, được noi theo và được trau chuốt ở Hungary, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bulgaria, và ở xa như Mông Cổ.
Nếu chúng ta muốn hiểu quá trình, mà thông qua đó chế độ cộng sản sụp đổ một cách hòa bình, thì chúng ta phải hiểu các điều kiện, những sự bất ngờ và các hậu quả của các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan.
Chúng ta có thể mời, như một số bài báo đã đề nghị, chúng ta có thể mời một danh sách học giả quen thuộc của những người tham gia để trả lời câu hỏi. Và quả thật, có nhiều công trình học thuật đầy ấn tượng đã dành cho chủ đề này, và nhiều học giả những người đã tạo ra các công trình này là những khán giả ở đây. Vài trong số họ sẽ là moderator, một vài trong số họ, trên thực tế, là những người tham gia hội nghị này. Nhưng đối với sự kiện này, chúng tôi muốn vượt qua các hệ thuyết (paradigm) học thuật về những chuyển đổi được điều đình hoặc về việc giải quyết xung đột và bước vào luồng xoáy can dự chính trị. Chúng tôi muốn chú tâm vào trí tưởng tượng chính trị của bản thân những người tham gia và quan niệm của họ về vai trò và trách nhiệm của mình trước Ba Lan, các cử tri, và lịch sử. Trong ý nghĩa này, chúng tôi tìm cách đưa sự trải nghiệm và sự thấu hiểu của những người đã làm thay đổi thế giới vào sự làm sáng tỏ của cuộc thảo luận cởi mở và học thuật.
Tất nhiên có nhiều diễn đàn, nơi các chính trị gia có thể đưa ra các diễn giải riêng của họ về lịch sử nhưng các giải thích đó thường bị gắn với chính trị thường ngày. Ngay cả sự giải thích về năm 1989 trong năm 1999 đôi khi dễ hiểu hơn trong chính trị của tương lai, hơn là dưới dạng của các ràng buộc và các tùy chọn của quá khứ. Chúng tôi đã cố gắng làm một cái gì đó khác ở đây.
Trong thư mời gửi cho những người tham gia hội nghị, chúng tôi đã yêu cầu họ tham dự một sự kiện quốc tế, nơi các bài thuyết trình được trình bày, các điều phối viên đặt câu hỏi, và tất cả mọi người lắng nghe với sự quan tâm và sự tôn trọng đặc trưng cho một hội nghị học thuật. Chúng tôi tin một sáng kiến như vậy, nơi những người làm nên lịch sử thảo luận sự đóng góp của họ trong khung cảnh của một trường đại học toàn cầu, sẽ tạo cho chúng ta một cơ hội để khám phá không chỉ những rắc rối của những sự biến đổi và chính trị Ba Lan, mà cả ý nghĩa rộng lớn hơn của nó đối với lịch sử, và tương lai, của thế giới này.
Chúng tôi đã mời những người trong các bạn, những người đã đăng ký tham dự hội nghị này gửi cho chúng tôi những câu hỏi mà họ muốn thấy chương trình này đề cập đến. Chúng tôi đã xem xét những câu hỏi đã được gửi sớm và, trong các phiên khác, chúng tôi sẽ thu thập các câu hỏi tại chỗ để tập hợp và cung cấp cho các điều phối viên của chúng tôi. Tối nay, do thời gian đã muộn, do sự mệt mỏi của các vị khách của chúng ta mới đến từ Ba Lan, và sự đầy của chương trình, chúng ta sẽ không có khả năng tổ chức thảo luận trong hội trường này.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng tham vọng của chúng tôi ở đây không phải là để tán dương hoặc đổ lỗi cho những người đã thực hiện Bàn Tròn, đúng hơn tham vọng của chúng tôi là để hiểu rõ hơn hoàn cảnh, những sự bất ngờ, và các hậu quả của các lựa chọn chính trị đã dẫn đến Bàn Tròn và sự sụp đổ được thương lượng của chế độ cộng sản. Nhưng còn nhiều hơn thế. Một trong những thách thức trí tuệ lớn nhất trước thế giới là để hiểu rõ hơn về làm thế nào mà các cựu thù có thể ngồi lại với nhau bên một chiếc bàn và thương lượng những thay đổi đảm bảo không chỉ một quá trình chuyển đổi hòa bình mà cả một tương lai ổn định và thịnh vượng cho tất cả mọi người liên quan. Cha Józef Tischner, do tình trạng bệnh tật đã không thể có mặt với chúng ta ngày hôm nay, đã nói về Bàn Tròn, và tôi sẽ đọc bằng tiếng Ba Lan để giữ tiếng nói của cha: “Dla mnie juz Okragly Stól byl wyrazem naszej wlasnej politycznej twórczosci, podobnie jak Solidarnosc. Solidarnosc miala ideowe zaplecze chrzescijanstwa, a Okragly Stól mial zaplecze w Solidarnosci. Te dwie koncepcje Solidarnosc i Okragly Stól wcielaly bardzo polska droge pokojowego przechodzenia od swiata rewolucji do swiata pokoju.” (Dịch: “Đối với tôi Bàn Tròn đã là một biểu hiện của sự sáng tạo chính trị của riêng chúng ta, hệt như Đoàn kết [Liên đới][1] đã là. Liên đới về mặt tư tưởng đã dựa trên Kitô giáo, và Bàn Tròn về tư tưởng đã dựa trên sự Liên đới. Hai khái niệm này, Liên đới và Bàn Tròn, đã thể hiện một lộ trình rất Ba Lan của quá trình chuyển đổi từ thế giới của cách mạng sang thế giới của hòa bình”).
Khi tôi đọc đoạn này trong cuốn Między panem a plebanem,[2] tôi đã thật sự cảm động và bị lôi cuốn để tự hỏi liệu con đường Ba Lan này đến một thế giới hòa bình có thể không là một con đường phổ quát khả dĩ, mà sự khai thác nó có thể mang lợi cho tất cả những ai học hỏi từ nó, hay không. Nhưng sau đó tôi cũng đã nhận ra rằng nếu không có sự đánh giá sâu rộng và phê phán về các cuộc đàm phán này trong bầu không khí được một môi trường học thuật, như hội nghị này, cho phép, thì những bài học thực tế có thể chẳng bao giờ được học, và vì lý do đó tôi đặc biệt biết ơn ba người đàn ông nổi bật của nền chính trị Ba Lan, những người vào năm 1989 đã đại diện cho một số đánh giá khác nhau rất quan trọng về các khả năng và tầm quan trọng của Bàn Tròn Ba Lan.
Chúng tôi đã mời mỗi người trong số họ trả lời câu hỏi sau: “Các sử gia tương lai sẽ định vị các sự kiện này xung quanh cuộc đàm phán Bàn Tròn ở đâu trong lịch sử Ba Lan và thế giới?” Một câu hỏi dễ, không nghi ngờ gì.
Tuy nhiên, chúng tôi đã rất khó quyết định về loại thứ tự nào mà các diễn giả tối nay sẽ phát biểu. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng vì tôi đã là người đầu tiên, thứ tự dễ nhất đơn giản là từ trẻ nhất đến già nhất. Vì thế, nếu các bạn chưa biết, thứ hai sẽ là Mieczyslaw Rakowski, thứ ba sẽ là Wieslaw Chrzanowski, và đầu tiên là Adam Michnik. Hãy để tôi nói một vài lời về ông.
Ira Katznelson, một trong những nhà lý luận chính trị hàng đầu của Mỹ, đã mô tả Adam Michnik như “được cho là biểu tượng trí tuệ dân chủ của Đông Âu.” Adam Michnik đã gắn với một số biến đổi gây ấn tượng nhất của lịch sử Ba Lan trong ba thập kỷ qua, trong việc ủng hộ quyền tự do ngôn luận năm 1968, để bảo vệ người lao động cuối những năm 1970, trong sự hình thành Đoàn kết vào năm 1980, và, tất nhiên, trong tiến triển của các cuộc đàm phán Bàn Tròn năm 1989. Hiện nay ông là tổng biên tập của tờ báo lưu hành rộng rãi nhất Ba Lan, Gazeta Wyborcza. Thưa quý vị, Adam Michnik.
Panellist (diễn giả):
Adam Michnik, Tổng biên tập báo Gazeta Wyborcza, nhà hoạt động Đoàn kết, nhà hoạt động nhân quyền, tham gia vào Bàn Tròn cho phe đối lập
Thưa các quý bà và các quý ông, cuộc tranh luận về Bàn Tròn là tranh luận đi cùng với tất cả các cuộc xung đột của thời đại chúng ta: dân tộc, tôn giáo và xã hội. Đây là cùng cách, mà những người Anh và Pháp ủng hộ và phản đối các vụ hành quyết các vị vua đã thảo luận, đây là cách mà các đối thủ Tây Ban Nha và Argentina của chế độ độc tài đã thảo luận, đây là cách mà các đối thủ da trắng và da đen của chế độ Apartheid đã thảo luận. Đây, cuối cùng, là cuộc tranh luận giữa những người Israel và Palestine ủng hộ và phê phán các cuộc đàm phán hòa bình. Những người bênh vực phương pháp hòa bình để giải quyết xung đột đã luôn đối mặt với những câu hỏi và các lời buộc tội tương tự. Làm thế nào người ta có thể nghĩ về việc giao kết một hiệp ước với kẻ thù? Làm thế nào người ta có thể tìm kiếm một sự thỏa hiệp với ai đó, kẻ phải bị trừng phạt vì những tội ác của hắn? Và thường các câu trả lời được đưa ra là tương tự. Bạn phải chấp nhận thỏa thuận và tìm kiếm sự thỏa hiệp với kẻ thù, chính xác bởi vì hắn là một kẻ thù. Không cần phải thương lượng với bạn bè. Lựa chọn thực sự ở đây là gì? Hoặc là một cuộc chiến tranh, dễ kích động, và có thể kéo rất dài, hoặc một con đường khó khăn hướng tới hòa bình dựa trên sự thỏa hiệp. Nhưng một sự thỏa hiệp luôn để lại một cái gì đó đáng mong muốn. Để có thể sống trong hòa bình và tự do, nhất thiết phải thay ngôn ngữ chiến tranh bằng ngôn ngữ hòa bình, và đấy là nỗ lực mà Ba Lan đã tiến hành mười năm trước. [Công đoàn] Đoàn kết bí mật bị chia rẽ; đã có [phe] cánh khăng khăng chống lại bất luận cuộc đàm nào, và có một cánh khác háo hức muốn đàm phán với cộng sản, vô điều kiện. Khi nhớ lại quan điểm của riêng mình, tôi đã có ý phản đối cả hai. Tôi đã hết sức ủng hộ phe đối lập cứng rắn trong bí mật, vào lúc đó, nhằm đạt được một sự thỏa hiệp tử tế cho tương lai. Nhiều người trong số các chính trị gia hàng đầu của Đoàn kết đã suy luận theo cùng cách trong thời bí mật: Lech Walesa, Zbigniew Bujak, Mazowiecki, Geremek, Jacek Kuron, Frasyniuk, và cả Jaroslaw và Lech Kaczynski nữa, tất cả những người đó về sau đã theo đuổi những con đường khác nhau của họ. Tôi thường nghe những lời buộc tội rằng do chọn logic thỏa hiệp, tôi đã phản bội tiểu sử của chính mình. Đó là lý do tại sao tôi muốn bắt đầu bình luận về trường hợp của riêng tôi. Khi còn trong nhà tù ở Gdansk, tôi đã viết một cuốn sách nhỏ Takie czasy (Những lúc như vậy), nó được đưa lậu ra từ nhà tù và được công bố trên báo chí bí mật, và đó là những gì tôi đã viết: “Công đoàn Đoàn kết phải từ chối triết lý ‘được ăn cả ngã về không’, cả liên quan đến Liên Xô và những người cộng sản Ba Lan, cả liên quan đến những thay đổi từng phần và chủ nghĩa đa nguyên mà phải được tạo ra trong đời sống dân sự. Bởi vì tôi xác định một cách không lay chuyển rằng trừ khi tình hình quốc tế thay đổi, sự thỏa hiệp ở Ba Lan, với cải cách dân chủ như hệ quả nảy sinh từ sự thỏa hiệp, không chỉ là một triển vọng thực tế, mà thực sự đó là giải pháp sẵn có duy nhất. Đối với những người cộng sản, nó sẽ là một cách để đạt được tính hợp pháp, còn đối với chúng ta nó sẽ là một con đường hướng tới cuộc sống tử tế. Theo đuổi sự thỏa hiệp và những thay đổi tiến hóa, chúng ta tính đến một tình huống trong đó những người cộng sản sẽ cúi đầu chịu áp lực xã hội và chí ít sẽ đồng ý các cuộc bầu cử nửa tự do đối với chính quyền địa phương và Sejm (Hạ viện). Và những người cộng sản sẽ làm điều đó không phải vì họ yêu dân chủ, mà vì sự suy tính thiệt hơn. Cải cách như vậy đối với họ sẽ là thuận lợi hơn việc tiếp tục cuộc chiến tranh lạnh dân sự liên miên.” Và tôi cũng đã viết điều này, trong tập sách này, tại nhà tù, vào năm 85, trong khi chờ bản án của mình: “Đây có thể là một giải pháp: tạo khả năng cho xã hội Ba Lan để thực sự bầu ba mươi phần trăm đại diện của mình vào Hạ viện. Thế nhưng những người cùng ba mươi phần trăm trên một danh sách bỏ phiếu bầu cử, bên cạnh Siwak[3] và Urban[4], chỉ có thể bị mất quyền lực của họ.”[5] Tôi xin lỗi vì trích dẫn bản thân mình. Những ngày này ở nước tôi, tuy vậy, có rất nhiều chính trị gia bị mất trí nhớ hoặc bịa ra các tiểu sử mới mà là có ích để đưa ra các lý lẽ tôi trích dẫn bây giờ. Trong những cuộc tranh luận về Bàn Tròn, mà có rất nhiều ở Ba Lan, có một luận điệu liên tục về sự ác ý, sự vu khống, phản bội, âm mưu, thao túng. Tôi cảm thấy rằng vì lợi ích ngắn hạn, có xu hướng nào đó để xuyên tạc lịch sử Ba Lan hiện đại. Những lời bóng gió như vậy khiến cho đối thoại là không thể. Chúng giúp tạo ra một hình ảnh về một kẻ phản bội và kẻ thù, hơn là hình ảnh của một nhà luận chiến và nhà phê bình. Và cuối cùng, cái thực sự là một thành công vĩ đại, không thể dự đoán của Ba Lan, sự trốn thoát không đổ máu của nó khỏi chủ nghĩa cộng sản, bây giờ lại thường được trình bày như một sự bất hạnh cho đất nước chúng tôi và như nguồn của các vấn đề hiện tại của nó. Tôi cho rằng loại chép sử sai lạc này gây ra chính sách sai. Có hai huyền thoại đi kèm với cuộc tranh luận về Bàn Tròn. Huyền thoại đầu tiên, được truyền bá bởi các chính trị gia và các nhà bình luận gắn với đảng cộng sản trước đây, nói về lòng nhân từ của các lãnh đạo đảng, những người đơn giản đã chuyển quyền lực cho phe đối lập ngay khi trở nên có thể. Loại thứ hai nói về âm mưu của “bọn đỏ với bọn hồng.” Tuy nhiên, đã không có lòng nhân từ cũng chẳng có âm mưu. Mục tiêu chiến lược của đảng cộng sản đã là để có được một tính chính đáng mới cho sự cai trị cộng sản ở Ba Lan và nước ngoài, và việc cho phép hình thức nào đó của đối lập được hợp pháp hóa đã là cái giá cho điều đó. Mặt khác, các mục tiêu chiến lược của phe đối lập Đoàn kết đã là hợp pháp hoá Đoàn kết và phát động quá trình chuyển đổi dân chủ. Sau nhiều năm đàn áp, vào năm 88 đã trở nên rõ ràng rằng chiến lược thiết quân luật đã thất bại. Trong tháng Năm và tháng Tám, một làn sóng đình công đã chứng tỏ rằng Đoàn kết vẫn còn là một yếu tố lâu bền trên chính trường Ba Lan và rằng cần thiết để nói chuyện với Đoàn Kết. Mặt khác, dưới chế độ thiết quân luật, Đoàn kết là một cộng đồng hơn là một nghiệp đoàn lao động, một huyền thoại hơn là một phong trào chính trị được thể chế hóa. Sức mạnh của nó đã là logo (biểu tượng) của nó, mà thực sự đã ảnh hưởng đến trí nhớ tập thể xã hội, và lãnh đạo của nó, Lech Walesa, người được giải Nobel Hòa bình. Nhưng thật ra, trong nhiều cơ sở làm việc, và trong cấu trúc tổ chức bí mật thật của nó, Đoàn kết đã yếu. Đúng là so với các cộng đồng bất đồng chính kiến tại các nước khác của khối phía đông trước kia, Đoàn kết có vẻ hùng mạnh. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng nghiệp đoàn nhiều nhiều triệu người của năm 81 đã bị giảm chỉ còn một mẩu sức mạnh trước đó của nó. Tuy nhiên, Đoàn kết vẫn đã giữ được một số lá bài chủ chính yếu của mình. Sự hỗ trợ của công luận ở phương Tây. Đoàn kết đã được Đức Giáo Hoàng, John Paul II ủng hộ một cách kín đáo. Một số giám mục đã ủng hộ mạnh mẽ Đoàn kết. Bên cạnh đó, có logic của sự thay đổi bên trong Liên Xô, tính không hiệu quả chính trị và kinh tế của nó. Cuối cùng, Đoàn kết cũng có thể tính đến sự chán ghét nhóm Jaruzelski vì việc tái lập dạng nào đó của hình thức thiết quân luật. Có vẻ như sau vụ ngày 13 tháng 12 năm 81, các nhà lãnh đạo cộng sản Ba Lan đã cố gắng để thi hành, để đưa vào cuộc sống, một loại nào đó của kịch bản Kádár[6]: chiến lược ổn định hóa thông qua đàn áp, và hiện đại hóa thông qua những cải cách hệ thống hạn chế. Chiến lược của Đoàn kết hoạt động bí mật lúc đó rất đơn giản: để sống sót qua các cuộc đàn áp và chờ hoàn cảnh chính trị tốt hơn. Hoàn cảnh mới này đã đến với Gorbachev. Những thay đổi ở Liên Xô đã tạo ra một tình huống mới, mà trong đó Bàn Tròn đã trở thành có thể. Sự thỏa hiệp đó, như thường lệ, đã là kết quả của sự yếu tương đối của cả hai bên. Các nhà chức trách đã quá yếu để chà đạp lên chúng tôi, và chúng tôi đã quá yếu để lật đổ chính quyền. Và từ hai điểm yếu đó một cơ hội mới phát sinh cho một lời giải thỏa hiệp mới. Và có vẻ như sự sẵn sàng của hai người, một là Lech Walesa và người kia là Wojciech Jaruzelski, đã đóng vai trò chính. Hai chính trị gia này có lẽ đã là những người duy nhất có đủ uy tín trong cộng đồng chính trị của họ. Không ai từ phía Đoàn kết đã có thể liều với các cuộc đàm phán như vậy mà không có Walesa hoặc chống lại Walesa, bởi vì việc đó đã có thể bị coi là một sự phản bội. Và tôi nghĩ ở phía bên kia, thỏa hiệp như vậy sẽ không có đủ hiệu lực nếu không được Jaruzelski ủng hộ. Đồng thời, phải nói rằng mỗi trong hai đối tác này đã hiểu mục tiêu của các cuộc đàm phán một cách khác nhau. Jaruzelski đã chẳng bao giờ che giấu các ý định của mình. Ngay vào ngày đầu tiên của tháng Chín năm 88, khi làn sóng thứ hai của cuộc đình công kết thúc, ông đã nói thế này tại cuộc họp của Ủy ban Trung ương: “Không có những kẻ thua và không có những người thắng. Chúng ta đã không rút lui. Chúng ta đã lặp lại lời đề nghị được đưa ra tại Hạ viện ngày 28 tháng 10 năm 81. Đấy là nghị quyết về thành lập Hội đồng Hoà giải Dân tộc, mà lúc đó đã bị từ chối một cách tàn nhẫn. Vào thời điểm đó Đoàn kết đã đánh mất cơ hội của mình và vẫn tay không. Hôm nay, chúng ta nói: không có chỗ cho Đoàn kết, mà một lần nữa đã chứng tỏ là một đảng của các cuộc đình công, là một nhóm gây rối, nhưng có chỗ cho một số người từ Đoàn kết trước đây những người muốn hợp tác.” Tất nhiên, một yếu tố của chính sách này là tạo ra sự rạn nứt giữa những người tốt và những người xấu của Đoàn kết. Vào đầu Tháng Mười 88, tại cuộc họp của Ủy ban Trung ương, Bộ trưởng [Bộ Nội vụ] Kiszczak cho biết: “Liên tục, cùng với đồng chí Ciosek, chúng tôi đã cảnh báo Walesa rằng chúng ta chỉ cần những người tin đối thoại để tham gia Bàn Tròn, nếu chúng ta không muốn Bàn Tròn thất bại. Chúng tôi đã vẽ một bức tranh rõ ràng trước Walesa và các đồng nghiệp của ông ta rằng những kẻ phiêu lưu chính trị và diều hâu phải bị loại khỏi các cuộc đàm phán. Dường như trong mọi trường hợp, chúng ta không thể đồng ý sự tham gia của Kurons, Michniks và những kẻ giống thế.” Nhưng ngay cả cách tiếp cận này cũng không được hầu hết các lãnh đạo của đảng cộng sản chấp thuận. “Kẻ thù của chúng ta, đối thủ của chúng ta rất khôn”, họ nói. “Các đối thủ của chúng ta đã tập hợp tất cả các phe nhóm đối lập lại với nhau, họ đang thu được những thắng lợi tuyên truyền, và điều này làm phá sản luận đề của chúng ta liên quan đến đối lập xây dựng và phá hoại. Đó là những người đang hoạt động, lấy cảm hứng nào đó từ các trung tâm quốc tế bên ngoài và nhận tiền từ chúng.” Đây là lời của tướng Kiszczak. Còn Mieczyslaw Rakowski, Thủ tướng Chính phủ lúc đó, thì nói: “Hiện nay, chúng ta không thể chấp nhận sự phục hồi hoạt động của Đoàn kết và tất cả các đề xuất khác của chúng ta sẽ không được chấp nhận bởi Đoàn kết, tức là bởi các đại diện của Đoàn kết. Vì thế, chúng ta phải đặt câu hỏi: làm gì tiếp? Theo quan điểm của tôi, nếu chúng ta không đồng ý sự phục hoạt Đoàn kết, chúng ta phải dự tính một cú sốc chính trị quy mô lớn, và vì điều này, chúng ta nên bắt đầu chuẩn bị cho một loại đối đầu nào đó, một cách tuyệt mật, tất nhiên.” Tất cả các bài phát biểu được trích dẫn này, tôi nghĩ, chỉ ra một bức tranh rõ ràng. Trong giới lãnh đạo đảng cộng sản, bất chấp những chia rẽ nội bộ của họ, rõ ràng hầu hết đã không muốn phục hoạt Đoàn kết, mà muốn phá vỡ nó thành các phe phái, và để tiếp quản các nhà hoạt động của nó vào cơ sở hạ tầng chính trị hiện tại. Và có vẻ như với tôi rằng các cuộc tấn công chống lại một số nhà hoạt động bí mật được lựa chọn, như Jacek Kuron và bản thân tôi, được thúc đẩy bởi thái độ này. Tôi nhớ những ngày đó. Sau cuộc gặp giữa Lech Walesa và tướng Kiszczak vào ngày 01 tháng 9 năm 88, sự lo lắng nào đó đã xuất hiện trong hàng ngũ của chúng tôi. Một mặt, Lech Walesa đã dừng không còn là một công dân riêng nữa, trích dẫn hết trích dẫn, luôn bị các nhà chức trách tẩy chay. Mặt khác, tuy nhiên, chúng tôi cảm nhận sự lừa dối nào đó trong chiến thuật của chính phủ, lập trường mơ hồ của họ liên quan đến việc hợp pháp hóa Đoàn kết, các điều kiện ban đầu không rõ ràng, mà thực tế đã chặn con đường hướng tới đàm phán. Tất cả điều này gây ra sự ngờ vực của chúng tôi. Chúng tôi đã có nhiều cuộc trò chuyện sau đó. Trong một trong các cuộc đó, tôi nghe được từ một người bạn của tôi, “Cái gì? Cậu nuốn nói chuyện với những người cộng sản ư? Trước đây [trong thời bị phát xít chiếm đóng] tướng Okulicki[7] và các nhà lãnh đạo khác của Ba Lan bí mật đã thử nói chuyện với cộng sản rồi!” Chúng tôi tranh luận rất nhiều. Tôi nhớ một đồng nghiệp khác của tôi đã giải thích với tôi rằng không phải là chính quyền cộng sản sẽ hợp pháp hóa Đoàn kết, mà ngược lại, Đoàn kết sẽ xác thực tính hợp pháp cho chính quyền cộng sản. Tôi nhớ một cuộc trò chuyện dài với một người bạn, tham gia vào hoạt động văn hóa độc lập bí mật, và đối với cô ấy Bàn Tròn chỉ đơn giản có nghĩa là một sự phản bội lý tưởng, khuất phục sự kiểm duyệt, và từ bỏ sự độc lập thực sự. Tôi không chia sẻ các quan điểm này nhưng tôi hiểu những người bạn ấy, bởi vì loại thỏa hiệp này có thể làm chúng tôi mất uy tín. Nó có thể! Và nó thực sự đòi hỏi loại nào đó của sự làm trái với bản thân mình, với những xúc cảm và ký ức của mình. Tôi nhớ đã khó đến thế nào để tôi vượt qua sự kháng cự nội tâm và các nỗi sợ hãi của chính mình. Tôi nhớ đã cần bao nhiêu nỗ lực để tôi thử hiểu các lý do của những kẻ thù ngày hôm qua của chúng tôi, những người bây giờ đã trở thành các đối thủ và các đối tác. Suốt từ tháng Chín năm 88, chúng tôi đã nêu rõ ràng các vấn đề. Điều kiện tiên quyết đã là sự hợp pháp hoá Đoàn kết và Lech Walesa đã có một cảm giác hoàn hảo về chúng tôi có thể đẩy xa đến đâu. Ông đã không nhượng bộ các áp lực liên quan đến sự tham gia của bất kỳ cá nhân nào nhưng đã nhất quyết một cách kiên định: “Đoàn kết trên hết.” Bởi vì uy quyền không thể bị nghi ngờ của ông trong các giới đối lập, các nhà lãnh đạo cộng sản đã phải chịu thua lập trường cứng rắn của ông. Tuy vậy, trước đó, trong nhiều tuần, đã có một cuộc chiến tranh cân não thực sự. Chúng tôi đã nghe từ Thủ tướng Rakowski rằng những người Ba Lan thực sự quan tâm nhiều hơn đến một cái bàn (ăn) được bày biện hoang phí hơn là một Bàn Tròn. Cũng đã có quyết định đóng cửa xưởng đóng tàu Gdansk, khi chúng tôi đơn giản cảm thấy đã bị đẩy vào chân tường, chúng tôi phải phản đối việc đó. Nhân tiện, đấy cũng là lúc cảnh kỳ quặc nhất trong lịch sử châu Âu thế kỷ XX đã diễn ra, khi các công nhân xưởng đóng tàu Gdansk đã hô vang để chào đón Margaret Thatcher. Khó để nghĩ rằng người đàn bà thép đã nhận được sự ủng hộ nhiều đến vậy từ những người vô sản nổi loạn! Đã có những bài phát biểu đáng nhớ khác. Đã có một bài phát biểu nổi tiếng của Tướng Jaruzelski tại Ursus, trong đó chúng tôi được nhắc đến một cách thô lỗ. Chúng tôi thấy tất cả như một quan niệm chung nào đó về việc thâu nạp những người đối lập nào đó vào chính phủ theo cách mà họ sẽ chia sẻ trách nhiệm mà không có chia sẻ quyền lực. Từ tất cả những tư liệu mà tôi đã trích dẫn dồi dào ở đây, và chúng đều là những tài liệu bí mật của Ủy ban Trung ương đảng cộng sản được nhà xuất bản “Aneks” công bố năm 1994, lộ ra rằng bước đột phá trong lập trường của chính quyền thực sự xảy ra trong Tháng Mười Hai 88. Vào ngày 24 tháng 11, chiếc bàn tròn, được chuẩn bị cho các cuộc tranh luận, thật sự đã bị tháo rời, nhưng ngày 30 tháng 11, đã có một cuộc tranh luận truyền hình giữa Walesa và Miodowicz và đó là một cú sốc cho công chúng, cho công luận. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên nó. Tất cả bạn của tôi đã áy náy, lo rằng Walesa sẽ bị Miodowicz, một kẻ mị dân được đào tạo, ăn sống theo nghĩa đen, nhưng tôi khá chắc chắn rằng Lech sẽ đơn giản xé toạc ông ta, bởi cái đúng và chân lý ở bên phía Walesa. Và tôi sẽ không bao giờ quên, và Đức cha Alojzy cũng có thể muốn đề cập đến nó ở đây, khi chúng tôi đang ăn mừng trong văn phòng Đức cha thì Lech trở lại từ cuộc ghi hình. Một cái gì đó thực sự đã vỡ òa vào thời điểm đó. Hóa ra Lech xuất hiện trên TV rất bình tĩnh, ôn hòa và có trách nhiệm, và ông đã không giống, rất không giống hình ảnh của chính phủ về ông như loại kẻ gây rối nào đó mà các nhà chức trách đã nghĩ về cái gì đó khác hẳn. Và quả thực, trong tháng mười hai năm 88 Rakowski đã diễn đạt một số câu hỏi nổi tiếng của ông về hợp pháp hóa Đoàn kết, được trình bày cho các nhà hoạt động đảng. Đây là một bước ngoặt. Đây là thời điểm khi chúng tôi cảm nhận được sự thay đổi nào đó từ phía các nhà chức trách. Cuối tháng Mười Hai, một tài liệu đã được chuẩn bị. Nó được nhóm dự đoán của Bộ Chính trị thực hiện và không được ký, nhưng tôi có thể cảm nhận rằng phải có nét bút tham lam của giáo sư Janusz Reykowski. Và tài liệu này nói: “Không có dấu hiệu nào rằng vấn đề của Đoàn kết tự nhiên sẽ tan biến. Đoàn kết là một thực tế. Đoàn kết tồn tại; nó tồn tại bất chấp những hạn chế chúng ta áp đặt. Không có dấu hiệu nào rằng các hạn chế này sẽ thành công trong việc loại bỏ hiện tượng này trong tương lai. Nếu vậy, tại sao không bắt đầu một số cuộc thảo luận về sự tồn tại hợp pháp của Đoàn kết? Lập trường hiện tại của chúng ta, thực tế, là thực sự tập trung vào việc phá hoại Bàn Tròn.” Đấy là cái mà các nhà phân tích của đảng nói về lập trường của đảng, ‘phá hoại Bàn Tròn’. “Theo cách nào đó, cách này hay cách khác, Bàn Tròn phải dẫn đến một loại hợp pháp hoá nào đó của Đoàn kết. Hợp pháp hóa Đoàn kết là một nguy cơ đối với chúng ta, nhưng nếu chúng ta không làm điều đó, ai có thể bảo đảm việc giải thể nó? Chúng ta có thể hoặc giữ Đoàn kết bên trong các chuẩn mực của luật hoặc để nó, với tiềm năng thực sự của nó, ngoài các chuẩn mực của luật.” Và đây là một lập trường hoàn toàn khác với toàn bộ phương châm chính sách của đảng. Do đó, không ngạc nhiên khi tại phiên họp toàn thể tháng Mười Hai, một cuộc tấn công lớn của các nhà hoạt động đảng chống lại ban lãnh đạo đã xảy ra. Các nhà hoạt động đảng đã không muốn tái hợp pháp hóa Đoàn kết đáng ghét. Khi bây giờ chúng ta phân tích những ngày đó, chúng ta phải nhìn thấy sự mâu thuẫn bên trong bộ máy đảng, bên trong giới elite cầm quyền. Và những người xuyên tạc phần đó của lịch sử vì lý do chính trị hiện nay của riêng họ và cho rằng đã không có sự chia rẽ sâu sắc như vậy, vậy thì họ tạo ra sự chép sử giả, mà việc đó, lần lượt, phải tạo chính kiến giả dối. Trong hoàn cảnh đó, vào ngày 17-1-1989, đã có một phiên họp đặc biệt của Bộ Chính trị. Trong biên bản phiên họp đó chúng ta có thể đọc: “Bí thư thứ nhất Tướng Jaruzelski nói rằng ban lãnh đạo không có sự tin tưởng của các nhà hoạt động đảng, và điều đó tạo ra một tình huống khủng hoảng. Hoặc các ủy viên Trung ương,” Jaruzelski nói rằng, “Hoặc các ủy viên Ủy ban Trung ương đảng sẽ chứng tỏ sự tin tưởng vào ban lãnh đạo, hoặc ban lãnh đạo phải từ chức. Và nếu có sự tin tưởng, chúng tôi có quyền để yêu cầu thực hiện các nghị quyết đã được thông qua.” Thay mặt các đồng chí Rakowski, Siwicki, và Kiszczak, Jaruzelski tuyên bố rằng nếu họ không nhận được phiếu tín nhiệm, tất cả họ sẽ xin từ chức. Nói cách khác, Jaruzelski, cùng với hai tướng và Thủ tướng Chính phủ Rakowski, đã đưa ra “một đề nghị không thể từ chối,” như họ nói trong bộ phim The Godfather, với Ủy ban Trung ương. Đề nghị không để bị từ chối, bạn hoặc ký vào đây, hoặc não bạn sẽ tung tóe trên mảnh giấy đó. Theo cách này, con đường dẫn đến sự tái hợp pháp hóa của Đoàn kết đã được mở ra, nhưng chúng tôi, các thành viên của phe đối lập, đã phải trả một giá cao cho nó. Chúng tôi đã trao tính hợp pháp cho hệ thống bằng cách tham gia các cuộc bầu cử. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản đã muốn thay đổi tất cả theo cách mà sẽ duy trì nguyên trạng. Tạo ra cái có thể nói là công thức bầu cử được thỏa thuận trước bằng hợp đồng trong các cuộc bầu cử Hạ viện là cách của họ để đạt được điều này, và đó là cái giá chúng tôi đã đồng ý trả vì Đoàn kết. Tôi nhớ rất kỹ lễ khai mạc Bàn Tròn, khi giáo sư Geremek buộc tôi mang com lê và cà vạt, và khi, nghe những nhận xét láu cá của Walesa và những người khác, tôi đã đi đến Cung điện Phó vương ở Warsaw. Để vào phòng tranh luận, phải đi lên cầu thang, và ở trên cùng Tướng Kiszczak và Bí thư Stanislaw Ciosek đứng đón chào khách. Tôi xoay xở để nấp trong phòng tắm sao cho không bị bất cứ ai nhìn thấy phải bắt tay với cảnh sát trưởng. Tôi đơn giản sợ vợ tôi sẽ đuổi tôi ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi đã tìm thấy một nơi ẩn nấp trong phòng tắm, đợi mấy phút ở đó, nhưng khi tôi ló ra, ông Kiszczak vẫn còn đó chìa tay ra để bắt. Bạn biết đấy, đèn chiếu sáng, máy ảnh … và đây là cách tôi đã đánh mất sự trinh tiết của mình! Chúng tôi đã có một cảm giác kì lạ về tình hình của mình. Chỉ hai năm rưỡi trước đây tôi đã được giải thoát khỏi nhà tù, và đã có đồng nghiệp của tôi, bạn bè thời bí mật, Kuron, Bujak, Frasyniuk, những người khác. Nhưng cùng lúc, tôi nhận thấy rằng sự thay đổi lịch sử loại nào đó đang diễn ra mà tôi đã không có khả năng xác định tại thời điểm đó. Tôi đã hiểu một điều: phe đối lập dân chủ cuối cùng đã bước một bước qua ngưỡng của tính hợp pháp. Từ Cung điện Phó vương đó con đường của chúng tôi chỉ có thể dẫn hoặc đến nhà tù ở đường Rakowiecka hoặc đến sự chấm dứt của hệ thống cộng sản. Trong các cuộc đàm phán này, tôi vẫn đánh hơi tìm các c