Việc Trung Quốc gây sức ép để xu thế quốc tế hóa biển Đông của Việt Nam và các nước ASEAN bất thành, liệu có hiệu quả gì không? BVN xin giới thiệu quan điểm của một nhà nghiên cứu khoa học xã hội quen biết: ông Hồng Lê Thọ mà câu trả lời của ông cũng là ước vọng của nhiều người: dù mạnh thế và to mồm, một khi đã thò đuôi cáo, con cáo già phương Bắc sẽ thất bại trước ý chí của nhân dân vùng Đông Nam Á, trong yêu cầu bức thiết phải giữ lấy vùng biển huyết mạch của mình.
Bauxite Việt Nam
Những ngày qua dư luận quốc tế tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến thái độ quyết liệt chống lại xu thế “quốc tế hóa” trong thương thảo giữa Trung Quốc với các nước láng giềng trong tranh chấp về chủ quyền và khai thác ở biển Đông. Từ lâu Trung Quốc đã khăng khăng giữ lập trường giải quyết và thương lượng song phương, tránh né, thậm chí ngăn chặn việc đưa ra tranh luận và xét xử quốc tế vấn đề nầy, bằng nhiều hành động phá hoại, xuyên tạc lẫn gây sức ép kể cả khả năng sử dụng vũ lực(1).
Nếu ở thời điểm trước năm 1993, khi Trung Quốc chạy theo đường lối “tự lực cách sinh” với “Bước nhảy vọt” hay “Đại cách mạng văn hóa”, xem Mỹ và phương Tây là cừu địch, thì biện pháp giải quyết song phương trong vấn đề chủ quyền ở biển Đông, mạo hiểm – lợi dụng tình hình Hoa Kỳ thất bại trong cuộc chiến ở VN, buộc phải rút quân khỏi miền Nam và suy yếu, thu nhỏ qui mô và hiện diện quân sự ở khu vực – ra tay cướp đoạt như đã từng chiếm đoạt Hoàng Sa tháng 1/1974, và sau này, vào đầu năm 1988 – khi Liên Xô suy yếu về kinh tế, hỗn loạn chính trị trong nội bộ, giảm dần sự chi phối về quân sự ở khu vực Châu Á -Thái Bình Dương – một số hòn đảo nhỏ của Trường Sa cũng đã bị hải quân Trung Quốc đánh chiếm… Nhưng ngày nay, trong một tình huống mới, với chính sách “4 hiện đại hóa” của Đặng Tiểu Bình(2) khi Trung Quốc đã trở thành nước nhập khẩu dầu thô ngày càng lớn tương ứng với phát triển kinh tế ngày càng nóng trong hơn 2 thập niên kể từ năm 1980 và hiện là nước đứng thứ hai nhập khẩu và tiêu thụ dầu mỏ trên thế giới, vượt cả Nhật Bản thì giải pháp đa phương trong tranh chấp dù muốn hay không Trung Quốc cũng sẽ phải chấp nhận nếu muốn gìn giữ quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại tốt đẹp với các nước mà Trung Quốc đang muốn duy trì. Nói khác đi, cho dù bộ máy tuyên truyền chính trị lẫn đối ngoại của Trung Quốc gào thét về chủ quyền của họ ở biển Đông, dùng nhiều biện pháp và thủ đoạn để đe dọa Việt Nam lẫn các nước trong khu vực ASEAN bằng các tàu quân sự cải trang đánh cá, tuần ngư và tuần tra, phủ dụ hoặc phân hóa những thành viên trong tổ chức ASEAN bằng “sức mạnh mềm”, hay dưới chiêu bài tăng cường quốc phòng vì mục đích “hòa bình” và ổn định trong khu vực… tất cả cũng chỉ có tác dụng gây căng thẳng để giữ thể diện “quân tử Tàu”, che giấu một sự lúng túng hay lo lắng không thể chối cãi là họ không thể phá vỡ mối tương quan lực lượng hiện hữu mà Hoa Kỳ là nước giữ vai trò chủ chốt. Việc đảm bào an toàn và ổn định của con đường huyết mạch thông thương trên biển Đông, nối dài từ eo biển Holmutz qua eo biển Malacca để chuyên chở dầu mỏ và hàng hóa cho Trung Quốc và từ Trung Quốc, là điều kiện cơ bản đảm bảo an ninh về năng lượng, duy trì quan hệ thương mại ngày càng tăng trưởng và là nhân tố quyết định của sự phát triển hiện nay của nền kinh tế Trung Quốc.
Đây cũng chính là điểm yếu nhất kìm hãm mọi toan tính phiêu lưu về quân sự của những nhà lãnh đạo Trung Quốc kể cả tính toán phân chia (với Hoa Kỳ) Thái Bình Dương ra làm 2 phần Đông – Tây để tăng cường sự chi phối của Trung Quốc trên biển Đông(3) khi mối tương quan lực lượng giữa các cường quốc có mặt trên vùng biển Châu Á – TBD vẫn còn lệch về phía bên kia.
Hơn thế nữa, liệu các nước công nghiệp phát triển khác trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, đảo Đài Loan có thể chấp nhận sự lấn lướt và khuynh loát về quân sự của Trung Quốc mặc dù các quốc gia này vẫn có quan hệ thương mãi và hợp tác kinh tế song phương với Trung Quốc thuận lợi mỗi khi Trung Quốc dương oai diễu võ trên biển Đông Trung Hoa và biển Nam Trung Hoa (biển Đông), đòi chủ quyền dãy đảo Senkaku (Nhật Bản), chứ chưa nói đến thái độ của Hoa Kỳ có quan hệ đồng minh với những quốc gia Đông Bắc Á này hay của Nga trong mối quan tâm đặc biệt đối với khu vực nói trên. Quan hệ Mỹ – Trung dù phát triển tốt đẹp đến mấy trong thương mại vẫn hàm chứa những mâu thuẩn dai dẳng về vấn đề Tân Cương, hối suất đồng nhân dân tệ của Trung Quốc, cán cân mậu dịch nhập siêu của Hoa Kỳ, quyền sở hữu trí tuệ… là những vấn đề không thể thỏa hiệp dễ dàng. Phải chăng Hoa Kỳ có thể hi sinh những đồng minh chiến lược của mình, bỏ đi cái ô hạt nhân che chở và tầm chi phối của mình đối với Nhật Bản, Hàn quốc và Đài Loan? Những đảm bảo an ninh khu vực và với các nước nầy của Hoa Kỳ vẫn còn đó. Việc Mỹ chấp thuận tiếp tục cung cấp khí tài chiến tranh hiện đại cho Đài Loan, liên tục gây sức ép đối với Bắc Triều Tiên hay – dù di dời căn cứ quân sự của quân đội Mỹ ở Okinawa nhưng không phải là bỏ hẳn – duy trì sự có mặt của quân đội Mỹ ở Nhật Bản là những bằng chứng trả lời câu hỏi này.
Mặt khác, đối với các nước ASEAN, trong đó Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines là những quốc gia đang có tranh chấp và yêu sách về chủ quyền trên biển Đông cũng không thể làm ngơ trước những hoạt động khiêu khích hay dọa dẫm của Trung Quốc. Tình thế biển Đông ngày nay không cho phép Trung Quốc thao túng và mạo hiểm như trước. Tuy sự gắn bó của ASEAN chỉ dừng lại ở mức “đồng thuận”, nhưng các nước ASEAN đã lớn mạnh trong hơn 20 năm qua, 10 nước tham gia biết phải làm gì khi bị Trung Quốc lấn lướt vì mối đe dọa của Trung Quốc trên biển Đông không dừng lại ở Việt Nam. Hơn thế nữa, quan hệ của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế đang ngày càng được mở rộng theo nhiều kích chiều thì bản thân kích chiều đa dạng đó cũng đã hạn chế, không cho phép Trung Quốc từ chối những giải pháp thương lượng hoặc đàm phán đa phương khi có sức ép từ cộng đồng quốc tế.
Nói khác đi, biển Đông ngày nay không chỉ thuộc quyền một nước mà đã trở thành một vùng biển mang tính chiến lược cho nhiều quốc gia trong lẫn ngoài khu vực, có vị trí địa – chính trị quan trọng đối với quan hệ của nhiều phía, đa phương lẫn song phương. Không một quốc gia nào có thể độc chiếm vùng biển này dù có bố trí tàu sân bay hay trang bị khí tài chiến tranh hiện đại, tầm xa có thể vượt nghìn cây số để can thiệp, như Trung Quốc đang tăng cường hải – không quân. Đề xuất mở một hội nghị quốc tế về vấn đề chủ quyền trên biển Đông của Pháp xưa kia đã bị Trung Quốc nhiều lần khước từ(4), nhưng với tình huống ngày nay, khi Trung Quốc đã trở thành một thành viên trong cộng đồng quốc tế, chỉ có thể tồn tại và phát triển khi họ tôn trọng “luật chơi” của WTO, LHQ hay những tổ chức quốc tế khác như APEC, ASEM, WTO… thì thái độ khăng khăng “song phương” sẽ vô cùng bất lợi cho nước này nếu không nói đó chỉ là thủ đoạn đề chèn ép Việt Nam mà thôi.
Thử nghĩ nếu 55% dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc bị chặn lại trên eo biển Malacca và 70% hàng hóa Trung Quốc cũng không qua được cửa ải này nếu bị ai đó phong tỏa hay ngăn chặn thì Trung Quốc dù có muốn cũng không thể hung hãn! Nỗi sợ này của Trung Quốc không phải Hoa Kỳ, các nước phương Tây hay tư bản dầu mỏ quốc tế không nhận ra. Trung Quốc cần hơn ai hết một môi trường hòa bình để giao thương với các nước, đặc biệt với Đông Nam Á, các nước Nam Á, Trung Đông, Châu Phi và Châu Âu mà tuyến đường biển nối dài từ biển Đông sang các châu lục này giữ vai trò quyết định, sống còn đối với Trung Quốc. Có thể ở thời điểm nửa thế kỷ 21, vào những năm 2050, như tiên đoán của nhiều người, Trung Quốc có thể trở thành quốc gia siêu cường khuynh loát về kinh tế và quân sự trên khu vực Đông Nam Á đối với Hoa Kỳ, Châu Âu hay nước Nga vốn có một tiềm năng quân sự, kinh tế hùng hậu…(5) thì Trung Quốc cũng không thể tồn tại một mình và không bao giờ có thể thống trị thế giới bằng vũ lực, cũng như không thể di dân ào ạt xây dựng đội quân thứ 5 – đang phảng phất ở Châu Phi và cao nguyên ở Lào, Campuchia và vùng rừng núi biên giới của VN(6) – để “lấy thịt đè người” theo tư tưởng Đại Hán.
Từ chối thương thảo đa phương, bác bỏ quốc tế hóa vấn đề biển Đông là một sự chọn lựa thiếu khôn ngoan, không thức thời, vì tình thế đang bắt buộc Trung Quốc phải đi theo hướng này nếu muốn phát triển và có môi trường hòa bình để giao thương với thế giới. Bản thân Chủ tịch Hồ Cầm Đào cũng đã nhận thức được(6) nhưng với tự ái và ‘thể diện” của “quân tử tàu”, những nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc một mặt kích động dư luận trong nước đi theo chủ nghĩa dân tộc, rằng sẽ không khoan nhượng trong vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa – Trường Sa, ra sức khống chế vì họ không muốn Việt Nam có vai trò lấn lướt trong vấn đề biển Đông, dùng quan hệ và sự kìm hãm Việt Nam làm lá bài đặt cược trong thương thảo các điều kiện có lợi cho mình trong khai thác nguồn dầu khí phong phú trong biển Đông. Việc Việt Nam phát huy vai trò điều phối trong các sân chơi quốc tế càng gây khó chịu cho người láng giềng phương Bắc, là rào cản đối với Trung Quốc trong chiến lược vươn ra biển lớn trong thế kỷ 21. Trong tình huống như vậy, thái độ và sách lược của Việt Nam trên trường quốc tế về vấn đề biển Đông vô cùng quan trọng, vừa là cơ hội vừa là thử thách trong mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một thành viên chủ chốt trong việc bảo đảm an ninh và ổn định trên biển Đông và khu vực châu Á – TBD. Chỉ trong vai trò này và chia sẻ trách nhiệm, chúng ta mới có thể đảm bảo được chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ trên đất liền lẫn biển đảo với sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Nói khác đi Việt Nam chỉ có thể bảo vệ vững chắc những gì còn lại của mình trên biển Đông – những hòn đảo trong quần đảo TS – bằng một tầm nhìn chiến lược và hiệu quả trong cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong khu vực hơn là chỉ “gói gọn” trong chủ trương bảo vệ chủ quyền trong phạm vi song phương mà Trung Quốc vẫn muốn áp đặt.
Với tình hình quốc tế hiện nay, việc “đa phương hóa” hay”quốc tế hóa” vấn đề biển Đông đã có được những tiền đề vô cùng thuận lợi, không nhất thiết phải lo lắng thái quá trước động thái phá hoại hay ngăn cản từ một phía nào đó, mà theo chúng tôi chẳng qua là họ bắt buộc phải lên tiếng hung hăng như bao lần, vẫn cứng cổ rằng “không thể tranh cãi” trong yêu sách ngoan cố về chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông ngang ngược và trái khoáy với “chiếc lưỡi bò” lãnh hải vô căn cứ “do lịch sử để lại”. Trước khi chấp nhận một giải pháp đa phương, nhà đương cuộc của Trung Quốc có thể có hành động làm càn, ra tay trước để thị uy. Vì vậy việc cảnh giác trước mọi động thái hiếu chiến và khả năng sử dụng vũ lực của Trung Quốc nhằm chiếm đoạt toàn bộ quần đảo Trường Sa, Việt Nam cần phải có phương án để đối phó một cách hữu hiệu và nâng cao nhận thức bảo vệ chủ quyền hải đảo trong nhân dân hơn bao giờ hết.
3/2010
Chú Thích:
(1) Dương Danh Dy. Mạng Hoàn Cầu viết gì về Biển Đông? – bbc.co.uk
(2) Phan Doãn Nam. Bàn về quan hệ Trung – Mỹ – hocvienngoaigiao.org.vn
(3) Hải quân Trung Quốc và dự tính “chia đôi Thái Bình Dương” – tuanvietnam.net
(4) Monique Chemillier – Gendreau. “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Seasfoundation.org). NXB Chính trị Quốc gia, 1998 – bauvinal.info.free.fr
(4) PLAN Shapes International Perception of Evolving Capabilities
Jesse Karotkin. “HẢI QUÂN TRUNG QUỐC ĐỊNH HƯỚNG QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC” – jamestown.org
(5) Thư của hai vị lão thành cách mạng Đồng Sĩ Nguyên – Nguyễn Trọng Vĩnh gửi Thủ tướng Chính phủ – diendan.org
(6) Quan hệ Việt-Trung và các vấn đề do lịch sử để lại? – bauvinal.info.free.fr
Phát biểu của Chủ tịch TQ, Hồ Cẩm Đào, rằng “phải cùng với các nước trên thế giới thúc đẩy xây dựng một thế giới hài hòa, cố gắng tôn trọng lẫn nhau, tăng thêm nhận thức chung và cùng chung sống hài hòa với các nước trên thế giới, ra sức đi sâu hợp tác, cùng phát triển và đôi bên cùng có lợi với các nước trên thế giới, tích cực đề xướng chủ nghĩa đa phương, thúc đẩy dân chủ hóa quan hệ quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế, thực hiện mục tiêu cùng phồn vinh”.
“Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào: Kiên trì lý luận Đặng Tiểu Bình và thuyết “3 đại diện” trong đường lối đối ngoại”| 07/08/2009 – cpv.org.vn
——
* Chú thích của Ba Sàm:
– Bài này đã đăng cùng ngày trên Tuần Việt Nam, được biên tập lược bớt một số đoạn có lẽ có lối hành văn không thuận với phong cách báo chí trong nước.
Nguồn: anhbasam.com