Washington Post, thứ Bảy, 30-10-2010
HÀ NỘI – Cách đây 3 tuần, một cuộc triển lãm diễn ra tại Viện Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ở phía bên này của gian phòng lớn và dài, các kỷ vật của cuộc chiến 25 năm chống Pháp và Mỹ – gồm thư đầu hàng địch, các lời trích dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lựu đạn và súng AK-47 – treo kín các bức tường. Chuyện này cũng chỉ bình thường thôi, không có gì mới lạ.
Nhưng phía bên kia của phòng triển lãm, Viện Bảo tàng lịch sử đang thực sự làm nên lịch sử. Dọc theo các bức tường, người ta thấy treo các loại gươm đao, nhiều tranh vẽ và những câu trích dẫn có xuất xứ từ cuộc đấu tranh chống lại một kẻ thù khác của Việt Nam, đó là đế quốc Trung Hoa. Các trận đánh diễn ra trong những năm 1077, 1258 và các thế kỷ 14 và 18 được mô tả đến từng chi tiết.
Việc đặt Trung Quốc ngang hàng với “bọn xâm lược phương Tây” đánh dấu sự giải tỏa tâm lý trong giới quân sự Việt Nam và điều này có thể làm Bắc Kinh lo ngại. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã ra sức gầy dựng một mối quan hệ đặc biệt với chính quyền Cộng sản Việt Nam. Nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc – và thái độ ngày càng hung hãn của Trung Quốc đối với Việt Nam – đã báo động giới lãnh đạo của quốc gia 90 triệu dân này, khiến họ bắt đầu nhìn người láng giềng [phương Bắc] bằng cái nhìn khác trước. Bắc Kinh có nguy cơ mất tư thế là một đối tác cộng sản anh em và bị đẩy trở lại vị trí lịch sử lâu đời là một đế quốc ở phía Bắc Việt Nam, một đế quốc đã từng nhào nặn và hành hạ nước này trong nhiều thế kỷ.
Sự thay đổi nhận thức này đã đưa Việt Nam theo đuổi một nỗ lực phi thường, kết bạn với nhiều quốc gia trên thế giới như cách đề phòng đối với hiểm họa Trung Quốc. Và nổi bật trong số các nước bạn thân thiết mới mẻ này chính là Hoa Kỳ, một cường quốc cũng đang ráo riết tìm kiếm đối tác nhằm đối phó với Bắc Kinh.
Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh đã trầm ngâm khi trả lời một cuộc phỏng vấn: “Có được một người bạn mới luôn là điều tốt đẹp. Thậm chí càng tốt hơn khi người bạn đó đã từng là kẻ thù của mình”.
Tình hữu nghị Việt-Mỹ đang nảy nở này đã diễn ra công khai vào hôm thứ Sáu khi ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary Rodham Clinton, đến Việt Nam lần thứ hai trong vòng bốn tháng. Hai tuần trước, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, ông Robert M. Gates, cũng đã có mặt nơi đây. Tháng Tám vừa qua, Bộ Quốc phòng Mỹ đã tổ chức cuộc đối thoại đầu tiên về an ninh với đối tác Việt Nam tại Hà Nội. Trong vòng một năm qua, ba chiến hạm của hải quân Mỹ đã đến thăm Việt Nam. Hiện có trên 30 sĩ quan Việt Nam đang theo học tại các học viện quân sự Hoa Kỳ.
Mặc dù không được chính phủ cho phép nói chuyện với ký giả, nhưng một cựu viên chức cấp cao Việt Nam đã phát biểu: “Trong quá khứ, Hoa Kỳ theo đuổi chiến tranh Việt Nam là để chặn đứng sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ngày nay, Hoa Kỳ theo đuổi các quan hệ hữu nghị với Việt Nam… thì cũng để chặn đứng sự vươn dậy của Trung Quốc”.
Việt Nam và Hoa Kỳ đang có nỗ lực tiến tới một thoả hiệp cho phép Việt Nam tiếp cận công nghệ nguyên tử năng của Hoa Kỳ. Các viên chức Việt Nam cho rằng việc này có thể giúp Việt Nam khỏi lệ thuộc vào nguồn điện của Trung Quốc. Đồng thời, các viên chức quốc phòng Việt Nam nói rằng họ rất muốn mua công nghệ quân sự Mỹ, bao gồm các thiết bị dùng sóng âm (sonar equipment) để theo dõi tàu ngầm Trung Quốc. Hà Nội cũng thương thảo để mua các đồ phụ tùng cho kho máy bay lên thẳng UH-1 Iroquois do Mỹ chế tạo, một biểu tượng của chiến tranh Việt Nam. Ngoài ra, như một thách thức đối với sức ép của Trung Quốc, ba công ty dầu khí Hoa Kỳ đang thực hiện công tác thăm dò ngoài khơi trong vùng lãnh hải Việt Nam.
Mục đích chung
Cuộc thăm viếng hai ngày của ngoại trưởng Clinton đánh dấu lần đầu tiên Hoa Kỳ tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á – một diễn đàn thường niên của các quốc gia chính trong vùng. Thật ra, chính Việt Nam đã đưa Hoa Kỳ vào diễn đàn này.
Bà Clinton đã nói hồi tuần rồi trong một cuộc trao đổi với nhà sử học, ông Michael Beschloss, rằng: “Phía Việt Nam rất nhiệt tình trong việc tăng cường quan hệ đối tác với chúng ta. Nơi đây đã diễn ra một cuộc chiến mà hàng chục ngàn người Mỹ lẫn người Việt đã bị giết, đã bị thương tật và mang thương tích; một cuộc chiến từng để lại hậu quả sâu đậm trên đất nước chúng ta cũng như ở Việt Nam. Dù vậy, ngày nay người Việt và người Mỹ đang giao thương với nhau, đang quan hệ ngoại giao với nhau, đang theo đuổi mục đích chung trong về một số vấn đề trong khu vực và trên toàn cầu mà cả hai quốc gia đều quan tâm”.
Ông Bảo Ninh, tác giả cuốn tiểu thuyết khá rùng rợn nhan đề “Nỗi buồn chiến tranh”, đã nói: “Chúng ta nên dành cuộc chiến này cho những người viết văn, viết sử. Thậm chí thế hệ của tôi còn yêu thích người Mỹ hơn. Nếu có ai trưng cầu ý kiến quân đội [Việt Nam] vẫn sẽ bỏ phiếu cho Hoa Kỳ”. Ông Ninh, một binh nhì [thuộc quân đội Miền Bắc] trong thời chiến, còn cho biết thêm rằng Hoa Kỳ rất được yêu thích ở đây.
Hai quốc gia đã tìm thấy mục đích chung [trong nỗ lực nhằm] đảm bảo rằng Trung Quốc không thống trị một mình trên biển Nam Trung Hoa [Biển Đông]. Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ 1 triệu dặm vuông (khoảng 2 triệu rưỡi km vuông) vùng biển, bao gồm các vùng biển khơi rộng lớn, cách mũi cực nam Trung Quốc đến 1.000 dặm (khoảng 1.600 km), và đưa tàu tuần dương lớn nhất thế giới đến vùng này để sách nhiễu ngư dân Việt Nam và các toán thăm dò dầu khí. Tháng Bảy vừa qua, sau khi tham khảo ý kiến Việt Nam, bà Clinton đã nêu vấn đề Biển Đông tại một phiên họp các quốc gia Đông Nam Á, bác bỏ tuyên bổ chủ quyền trên biển của Trung Quốc, đồng thời kêu gọi các cuộc đàm phán đa phương về vấn đề này. Mười một quốc gia khác liền hậu thuẫn đề xuất do Hoa Kỳ dẫn đầu. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, ông Dương Khiết Trì, đã giận dữ rời phòng họp, và sau đó trở lại chỉ để nhắc nhở các quốc gia khác rằng họ là những nước nhỏ còn Trung Quốc là một nước lớn.
Một mục đích chung khác của hai nước sẽ được nhấn mạnh vào thứ Bảy, khi bà Clinton chủ tọa một cuộc họp thuộc chương trình Sáng kiến Hạ nguồn Mê Kông, do Hoa Kỳ đề xuất, một phần là để tìm cách thúc đẩy Bắc Kinh giới hạn số đập thủy điện mà Trung Quốc xây khi Sông Mê Kông chảy vào phía Nam từ Trung Quốc. Tuần trước, mực nước sông Mê Kông đã xuống mức thấp kỷ lục và các nhà nghiên cứu Việt Nam đổ lỗi cho các đập thủy điện, các dự án dẫn thủy nhập điền và thủy điện của Trung Quốc đã gây ra tình trạng khô cạn này.
Mở rộng hữu nghị
Chiến dịch lấy lòng của Việt Nam không chỉ nhắm vào Hoa Kỳ. Hà Nội đã tăng cường quan hệ với đàn anh cũ là Mạc Tư Khoa, và năm ngoái đã đặt mua sáu tàu ngầm loại Kilo. Ấn Độ, một đối thủ khác của Trung Quốc, cũng đang thương thuyết để giúp Việt Nam nâng cấp phi đội máy bay chiến đấu Mig-21. Pháp, mẫu quốc cũ của Việt Nam thời thuộc địa, đang cân nhắc việc bán các chiến hạm cho Hà Nội. Việt Nam cũng đang dang rộng cánh tay hữu nghị tới các cường quốc châu Á, như Hàn Quốc và Nhật Bản, bằng cách bỏ thị thực nhập cảnh cho công dân các nước này năm năm về trước.
“Việt Nam đang tìm cách nhắn gửi Trung Quốc: ‘Chúng tôi có những người bạn hùng mạnh’. Nhưng đây là một trò chơi rất tế nhị”. Ông Nayan Chanda, tác giả cuốn Kẻ thù anh em, cuốn sách nghiên cứu điển hình về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã nói như thế.
Thực vậy, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam vẫn còn khá mạnh. Các cải tổ kinh tế của Việt Nam – được biết với tên đổi mới – là theo gương Trung Quốc, và các cơ quan công an Việt Nam cũng đi theo mô hình công an Trung Quốc nhằm bảo vệ chế độ độc đảng. Vì vậy, Hà Nội phải rất cẩn trọng để khỏi làm Bắc Kinh bất bình hoặc không quá bất bình. Điển hình là, tại Viện Bảo tàng Lịch sử quân sự, một cuộc chiến khác đã không hề đả động tới – đó là cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu Việt – Trung năm 1979.
Các cơ quan kiểm duyệt Việt Nam thường xuyên ngăn cấm các tin tức chống Trung Quốc. Vào hôm thứ Năm, Bộ Ngoại giao đã ra lệnh báo mạng Vietnamnet phải gỡ bỏ một bài báo tiên đoán rằng các quốc gia Đông Nam Á sẽ có lập trường cứng rắn chống lại Trung Quốc liên quan đến các tranh chấp lãnh hải và các vấn đề khác. Tuy nhiên, một số tin tức khác cũng lọt qua được lưới kiểm duyệt, như các bản tin tuần này về một chiến dịch kiến nghị, do bà Nguyễn Thị Bình, nguyên phó chủ tịch nước Việt Nam, đại diện phía Mặt trận Giải phóng Miền Nam tại hoà đàm Paris, dẫn đầu, chống lại việc khai mỏ bô-xít lớn do Trung Quốc bỏ vốn đầu tư tại Tây Nguyên.
Bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cấp cao đã ký tên trong bản kiến nghị, đến nay đã thu thập được khoảng ba ngàn chữ ký, đã nói: “Chúng tôi ở cạnh Trung Quốc suốt bốn ngàn năm lịch sử. Chúng tôi không thể chỉ việc đứng dậy và bỏ đi. Tuy nhiên, để tồn tại, chúng tôi cần nhiều bạn bè”.
Ông Glenn Kessler đã đóng góp cho bài báo này.
Túy Vân dịch từ http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2010/10/29/AR2010102904746.html?hpid=topnews
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN