Biết dựa vào giới nghiên cứu để chế ngự nhóm lợi ích

Phải cho lùi vào dĩ vãng cái thời mà nhà lãnh đạo “gần dân”, “sâu sát với dân” chỉ đơn giản bằng cách thỉnh thoảng đến nhà những người nghèo tặng quà, thăm dân vùng lũ…, mà là dựa trên nghiên cứu của những think tanks lấy quyền lợi nhân dân làm mục tiêu, chế ngự các “nhóm lợi ích”.

Để tiến hóa từ một quốc gia “hạng ba” lên quốc gia “hạng nhất”, cấu trúc quá trình xây dựng chính sách của Việt Nam phải tiến hóa trước. Trong cấu trúc này, xây dựng lực lượng tư duy chiến lược, thông qua chính sách khoa học và dân chủ để xây dựng các think tanks, là điều đầu tiên phải làm.

Tự trưởng thành mà vẫn giữ độc lập

Gs. Kenichi Ohno từng đề xuất cho Việt Nam một quy trình soạn thảo chính sách, theo đó, Thủ tướng sở hữu trực tiếp một (hoặc nhiều) “nhóm kỹ trị”. (Các) Nhóm này toàn quyền nghiên cứu chiến lược, hoạch định chính sách, Thủ tướng là người ra quyết định cuối cùng và là người tổ chức tiến trình hành động thông qua bộ máy (là các Bộ, Ngành…) [1]

Đó cũng là cách tư duy và tổ chức của những bậc làm tướng vĩ đại như Trần Hưng Đạo, như “Đại Việt sử ký toàn thư” từng chép lại lời Cụ: Chim hồng chim hộc muốn bay cao thì phải có đôi cánh khỏe, không có đôi cánh bằng đủ sức bay ngàn dặm, chim hồng chim hộc chẳng khác gì chim sẻ!

Trong tình thế lực lượng hoạch định chính sách ở các Bộ đã trở nên hoạt động phân tán và thiếu chuyên nghiệp trong tư duy chiến lược, Chính phủ có thể tham khảo cách tổ chức của Nhật Bản, thành lập “Bộ hoạch định sách lược”, đảm nhiệm chuyên trách chức năng xây dựng chính sách, thông qua việc tập hợp các chuyên gia đa lĩnh vực và kết nối mọi nguồn lực trong xã hội để xây dựng chính sách cho từng lĩnh vực cụ thể.

Chúng ta cần đến lực lượng think tanks của dân tộc để tự chủ trong hoạch định chính sách. Các cơ quan tư vấn nước ngoài không thể được phép trực tiếp tạo ra những quyết định của Chính phủ, mà chỉ được phép tư vấn trực tiếp cho các think tanks riêng của Việt Nam. “Thế trận” này sẽ giúp chúng ta có thể giao lưu với dòng chảy tri thức tiên tiến của thế giới, có thể tự mình trưởng thành cùng quá trình hoạch định ấy, đồng thời vẫn giữ vững sự độc lập trong hoạch định chính sách.

Và hơn nữa, trong tương lai, khi đã trưởng thành, các think tanks của Việt Nam phải trả ơn người đi trước bằng cách cống hiến những hiểu biết của riêng mình cho sự phát triển chung của nhân loại.

Quốc hội không chỉ chờ Chính phủ trình

Bên cạnh đó, Quốc hội Việt Nam, để đủ khả năng thẩm định các chính sách mà Chính phủ trình lên, thì cần thành lập một cơ quan nghiên cứu chính sách chuyên nghiệp, được đầu tư phương tiện nghiên cứu đầy đủ, trong đó dĩ nhiên không thể thiếu “Thư viện Quốc hội”, một cơ quan mà hầu hết Quốc hội ở các nước tiên tiến đều có.

Việt Nam có một số “viện nghiên cứu”, hàng năm “chạy” được rất nhiều đề tài, xuất bản ra nhiều công trình nghiên cứu về “chiến lược” các loại, nhưng thật đáng buồn, về mặt trí tuệ, hầu hết những “nghiên cứu” này đều cung cấp những phát ngôn chung chung, không có ích cho tư duy và hành động của người lãnh đạo. Chúng được sản xuất ra như một cách để… giải ngân.

Chất lượng chính sách chỉ được năng cao, khi việc nghiên cứu chính sách không phải là cách kiếm cơm của “nhà nghiên cứu” lẫn “nhà quản lý”.

Quốc hội Việt Nam phải đạt đến trình độ mà mỗi Đại biểu Quốc hội, hoặc một nhóm Đại biểu, nhất là những đại biểu chuyên trách, sở hữu think tank của riêng mình. Cách tổ chức này giúp Đại biểu Quốc hội, một mặt, có thể sử dụng sức mạnh tri thức của xã hội để tự mình tiến hành nghiên cứu, phát hiện, lý giải các vấn đề quốc tế, kinh tế, chính trị, giáo dục, xã hội, văn hóa…, phục vụ cho sứ mệnh kiểm tra, thẩm định, giám sát hoạt động của Nhà nước, và mặt khác, không chỉ chờ Chính phủ đề xuất chính sách luật, mà còn có thể tự mình xây dựng, đề xuất và bảo vệ tính khoa học của nó trước Quốc hội để được Quốc hội thông qua, nhằm trở thành luật để quốc gia thực thi.

Việc các Nghị sĩ Quốc hội có thể tự mình tổ chức điều tra xã hội học và nghiên cứu chính sách, từ lâu, đã là điều bình thường ở các nước tiền tiến.

Trí tuệ là Quyền lực. Điều này không chỉ đến thời đại ngày nay mới đúng. Và để thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội Việt Nam cũng phải được tái cấu trúc sao cho “Trí tuệ” (tức “Quyền lực”) được triển khai đến mức tối đa trong cấu trúc vận hành của mình. Nếu bắt đầu bằng việc xây dựng và sử dụng think tank(s) thì đạt đến trình độ này không phải là điều quá khó khăn.

Phát triển đến trình độ tích hợp “Trí tuệ” và “Quyền lực” ngay trong cách thức tổ chức, là bước phát triển có tính khách quan của Quốc hội Việt Nam.

Vừa qua, ĐB Lê Quang Bình, Chủ nhiệm UB Quốc phòng và An ninh, bằng những điều tra nghiên cứu của riêng mình, đã phản biện những con số trong báo cáo của Chính phủ về thực trạng các địa phương cho thuê rừng đầu nguồn ở những vị trí xung yếu về mặt quân sự, hoặc, ĐB Hà Văn Hiền, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, đã tự tổ chức hội thảo khoa học, ngày 23/6/2010, với chủ đề đi tìm mô hình phát triển của kinh tế Việt Nam, quy tụ được nhiều chuyên gia nổi tiếng trong và ngoài nước.

Như vậy, trong Quốc hội nước ta, đã bắt đầu xuất hiện những chồi non đầu tiên phản ánh cái mới tất yếu này. Đó là những nền tảng đầu tiên để Quốc hội tái cấu trúc một cách “đột biến” để “tiến hóa”, nhằm giúp cho dân tộc thích ứng với thời đại mới, thời đại của Tri thức và Minh triết.

Chừng nào chưa tổ chức được lực lượng con người và vật chất như trên, chừng đó thì các đại biểu Quốc hội sẽ vẫn còn phải “than vãn” là thiếu thông tin để nghiên cứu, phản biện, mỗi khi Chính phủ trình chính sách.

Dựa vào nghiên cứu để chế ngự nhóm lợi ích

Trong kỷ nguyên của văn minh dựa trên sáng tạo, xây dựng được hay không một văn hóa dân chủ như là nguyên tắc quan hệ giữa người với người, mở được hay không một chân trời tự do cho một lực lượng tư duy chiến lược tài năng, chính là cội nguồn của sự giàu và nghèo của các dân tộc.

Việt Nam cần phải cho lùi vào dĩ vãng cái thời mà nhà lãnh đạo “gần dân”, “sâu sát với dân”, hoặc “đi sâu vào quần chúng” để “hiểu quần chúng”, chỉ đơn giản bằng cách thỉnh thoảng đến nhà những người nghèo tặng quà, lội xuống vũng sình khi thăm dân bị lũ…, mà là dựa trên nghiên cứu của những think tanks lấy quyền lợi nhân dân làm mục tiêu, chế ngự các “nhóm lợi ích” (thực chất, cũng hoạt động như các think tanks), để hoạch định chính sách cho hợp lý.

Chúng ta hiện đã có vô số “viện” nghiên cứu về “chính sách”, “sách lược”, “chiến lược” của nhà nước, nhưng hầu hết các cơ quan này đều không đáng được gọi là “think tanks”.

Việc nâng cao năng lực tư duy chiến lược và hoạch định chính sách, cũng như việc tái cấu trúc quy trình sản xuất tri thức tại các “viện nghiên cứu” của Nhà nước, là điều cấp bách.

Hiện nay, các viện nghiên cứu chính sách của Việt Nam được đãi ngộ quá thấp. Và, cùng với cơ chế xin cho trong nghiên cứu khoa học, “chạy” đề tài để kiếm sống (đối với với “nhà khoa học”) và phê duyệt đề tài để chia chác (đối với “nhà quản lý”) trở thành “công việc” thường tình.

Hậu quả là, Việt Nam có một số “viện nghiên cứu”, hàng năm “chạy” được rất nhiều đề tài, xuất bản ra nhiều công trình nghiên cứu về “chiến lược” các loại, nhưng thật đáng buồn, về mặt trí tuệ, hầu hết những “nghiên cứu” này đều cung cấp những phát ngôn chung chung, không có ích cho tư duy và hành động của người lãnh đạo. Chúng được sản xuất ra như một cách để… giải ngân.

Chất lượng chính sách chỉ được năng cao, khi việc nghiên cứu chính sách không phải là cách kiếm cơm của “nhà nghiên cứu” lẫn “nhà quản lý”.

Trong thời đại mà lực lượng tư duy chiến lược, ở hầu hết các nước lớn, đều đã phát triển thành một giai tầng xã hội, chúng ta không thể sinh tồn nếu chỉ có một vài think tanks của nhà nước.

Đất nước sẽ không thể cất cánh nổi nếu chỉ dựa vào những “chiến lược” của các cơ quan ấy. Điều này, như trên đã nói, có thể thấy rõ qua vô số “chiến lược” điển hình.

Chất lượng chính sách không thể được nâng cao, nếu trong tiến hình hoạch định sách lược, thiếu văn hóa dân chủ của xã hội công dân.

Bản chất của phản biện là xây dựng. Do đó, trong quá trình xây dựng chính sách quốc gia, phải có ngân sách riêng giành cho quá trình phản biện: phản biện giữa các cơ sở nghiên cứu của trung ương với nhau, phản biện của các trường đại học, phản biện của các think tanks dân sự.

Cần cụ thể hóa bằng luật

Để lực lượng tư duy chiến lược của đất nước phát triển thành một giai tầng xã hội, một quyết định hành chính không có tác dụng. Chính phủ có thể, trong một ngày, ký quyết định thành lập 2.000 think tanks. Nhưng phát triển về số lượng thì vẫn chỉ là bắt chước cái vẻ bề ngoài của tính hiện đại. Cái quan trọng là chất lượng. Và vì thế, cần một chiến lược, chiến lược này cần được cụ thể hóa ở luật pháp.

Việt Nam khó có thể nhanh chóng xây dựng được một lực lượng tư duy chiến lược hùng mạnh trong thời gian ngắn. Bởi lẽ, con người của tư duy chiến lược không phải có thể đào tạo qua trường lớp, sách vở. Họ cần được Chính phủ trọng dụng, cần môi trường “xã hội công dân” tôn trọng văn hóa dân chủ để trưởng thành.

Văn hóa dân chủ là huyết mạch, là hồng cầu giữ gìn sự sống nơi những neuron thần kinh của bộ não một dân tộc, là hệ động lực để những con người tư duy chiến lược của đất nước có thể phát triển thành một giai tầng xã hội.

Lực lượng tư duy chiến lược, như cách người Trung Quốc hôm nay dùng từ “Trí khố” để dịch từ “Think tank”, chính là “kho tàng tài nguyên trí tuệ của quốc gia”. Loại tài nguyên này khác tài nguyên tự nhiên ở chỗ, nó không phải là cái có sẵn để khai thác mà là cái phải được tạo ra, và mặt khác, càng khai thác thì nó càng không mất đi mà lại càng thêm giàu có. Quốc hội và Chính phủ cần (ít nhất) một think tank để hoạch định lộ trình sinh thành tầng lớp tư duy chiến lược cho dân tộc, và cụ thể hóa chính sách ấy bằng luật pháp.

N. L. H. K.

———

[1] Xin xem: “VN có quy trình làm chính sách có một không hai”, http://tuanvietnam.net/vn-co-quy-trinh-lam-chinh-sach-co-mot-khong-hai

Nguồn: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-10-21-biet-dua-vao-gioi-nghien-cuu-de-che-ngu-nhom-loi-ich

This entry was posted in Dân chủ. Bookmark the permalink.