Cù Tuấn biên dịch phóng sự của The Economist
Thứ Ba, 14-11-2023
Những nỗi đau thầm lặng, nhưng có sức gợi nhớ đến một dĩ vãng mà người Việt từng nếm trải. Và chính khả năng gợi thức ấy làm cho nỗi đau tưởng chừng bình thản trở nên khủng khiếp, thấm thía đến xương tủy của loài người: cái mất mát, cái chịu đựng của chiến tranh. Bauxite Việt Nam |
Tóm tắt: Khai thác mỏ là một ví dụ tiêu biểu.
Oksana nói cô ấy đã tạm dừng cuộc sống của mình. Covid-19 đã cướp đi mẹ cô và chồng cô vào hai năm trước. Đạn pháo của quân Nga đã cướp đi cha cô và con trai lớn của cô vào mùa xuân năm nay. “Bây giờ tôi đắm mình vào công việc,” cô nói, ở độ sâu 480 mét dưới vùng ngoại ô Ternivka, một thị trấn ở miền đông Ukraine. Lòng trắng của mắt cô phát sáng trong bóng tối xung quanh. Trở lại Bakhmut, nơi diễn ra một trong những trận chiến tàn khốc nhất của chiến tranh, Oksana, một phụ nữ 49 tuổi, là giáo viên dạy múa tại một trường nội trú dành cho trẻ em nghèo khó. Ngày nay, khi ngôi nhà cũ và quê hương của cô đã bị phá hủy, trường học nơi cô dạy đã đóng cửa và những người thân nhất của cô đã chết, Oksana trở thành một thợ mỏ than.
Sau khi quân Nga xâm lược Ukraine vào tháng 2 năm 2022, Oksana (quản lý mỏ của cô yêu cầu phóng viên chỉ nêu tên của cô) đã trốn sang Ba Lan, nơi cô làm công việc rửa bát và đầu bếp tại một nhà hàng. Nhưng cô nhớ Ukraine. Bạn bè nói với cô rằng mỏ Ternivka đang tuyển công nhân mới và cô đã đăng ký. Oksana nói rằng công việc mới của cô được trả lương cao hơn hầu hết mọi nơi và mang lại mức lương hưu hậu hĩnh. Cô nói, công việc cũng giúp cô quên đi những ký ức đau buồn khi cô tạm nghỉ giữa giờ. “Tôi muốn quên đi tất cả.”
Chiến tranh đã đảo lộn cuộc sống của vô số người Ukraine cũng như thị trường lao động của đất nước này. Khoảng 4,8 triệu người gần như mất việc chỉ sau một đêm khi Ukraine bị Nga tấn công. Tỷ lệ thất nghiệp ước tính đã giảm xuống 18,4% vào tháng 10 năm nay, từ mức hơn 30% vào mùa xuân năm 2022, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trước chiến tranh. Theo một cuộc khảo sát, 17% công nhân Ukraine đã thay đổi nghề nghiệp kể từ khi bắt đầu chiến tranh. Hàng trăm ngàn người đã phải nhập ngũ. Các quan chức Mỹ ước tính ít nhất 70.000 binh sĩ Ukraine đã thiệt mạng trong cuộc chiến và có tới 120.000 người khác bị thương. Khi ngày càng có nhiều người Ukraine được gọi nhập ngũ, nhu cầu về lao động trong các lĩnh vực mà trước đây nam giới thống trị cũng ngày càng tăng.
Và những người phụ nữ Ukraine đã có mặt. Chiến tranh và sự chiếm đóng đã khiến việc thu thập dữ liệu xã hội trở nên bất khả thi. Nhưng có những dấu hiệu cho thấy phụ nữ đang ngày càng tạo thêm sức mạnh cho nền kinh tế đang gặp khó khăn của Ukraine. Yulia Svyrydenko, Bộ trưởng Kinh tế nước này, cho biết trong số 36.000 công ty vừa và nhỏ được đăng ký tại Ukraine trong năm nay, 51% do phụ nữ điều hành. Ngày càng có nhiều phụ nữ bắt đầu làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và khai thác mỏ. Bà nói: “Mọi người sẽ thấy điều này ở quy mô lớn hơn khi chúng tôi bắt đầu tái thiết”.
Trong những năm tới Ukraine sẽ cần một đội quân bác sĩ và nhà tâm lý học để chăm sóc các cựu chiến binh, trong đó có hàng nghìn người bị cụt chi và binh lính bị chấn thương. Nhiều nếu không muốn nói là hầu hết những người chăm sóc đó sẽ là phụ nữ. Các lĩnh vực năng lượng, vận tải và quốc phòng, được kỳ vọng sẽ đóng một vai trò to lớn trong nền kinh tế sau chiến tranh, cũng chắc chắn sẽ thu hút nhiều lao động nữ hơn.
Tại khu liên hợp khai thác mỏ gần Ternivka, quân đội đã lấy đi 600 người vào quân ngũ, chiếm khoảng 1/10 tổng lực lượng lao động, Giám đốc Dmytro Zabielin cho biết. Để bù đắp sự thiếu hụt này, khoảng 300 phụ nữ đã nhận việc. Trước chiến tranh, khu mỏ đã tuyển dụng phụ nữ nhưng không ai làm việc dưới lòng đất. Hơn 100 nữ công nhân mới hiện đang làm công việc đó. Oksana vận hành và bảo trì một băng chuyền vận chuyển than lên bề mặt. Những phụ nữ khác đang làm thanh tra an toàn và thợ điện. Nhiều phụ nữ khác cũng đang trên đường tới mỏ. Olena, có chồng là một cựu thợ mỏ, chỉ huy một trung đội gần Luhansk, đang huấn luyện cách vận hành các đoàn tàu kết nối các khu vực của mỏ than. Anna, một cô gái vừa bước sang tuổi 18, sẽ trông coi những chiếc lồng chở thợ mỏ giữa các tầng. Ternivka nằm ở phía sau tiền tuyến nhưng khu vực này đã bị tên lửa hành trình của Nga tấn công. “Thật đáng sợ,” Anna nói. “Nhưng chừng nào tôi còn ở dưới lòng đất thì tôi không hề nghe thấy tiếng đạn pháo.”
Khai thác than là công việc nguy hiểm và vất vả. Chiến tranh đã làm cho nó thậm chí còn nguy hiểm và vất vả hơn nữa. Trong thời gian mất điện do các cuộc tấn công của Nga vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine vào mùa đông năm ngoái, các thợ mỏ Ternivka đã phải đi bộ trong lòng đất những 7km, sau đó leo 680 mét bằng thang thoát hiểm để lên mặt đất. Nhờ có máy phát điện mới, giờ đây các mỏ than có thể giữ cho các toa tàu và thang máy chạy đủ lâu để đảm bảo lối ra ít vất vả hơn.
Ukraine còn xa mới đạt mức bình đẳng giới. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ ngày càng giảm. Tỷ lệ này đã giảm từ 54% năm 1990 xuống còn 48% vào đêm trước cuộc xâm lược. Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao trong giáo dục, công việc gia đình và du lịch, những ngành nghề này có mức lương thường thấp. Khoảng cách về lương theo giới đã thu hẹp từ 26% bảy năm trước xuống còn 18,6% hiện nay, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình của EU (12,7% vào năm 2021). Cho đến cuối năm 2017, một luật có từ thời Liên Xô đã cấm phụ nữ làm 450 nghề, từ lái xe tải đến thợ hàn. Năm 2018, sau khi luật này bị bãi bỏ, Ukraine trao cho phụ nữ trong lực lượng vũ trang những quyền tương tự như binh sĩ nam. Khoảng 43.000 phụ nữ hiện đang phục vụ trong lực lượng vũ trang, trong đó có 5.000 người ở các vị trí chiến đấu.
Những thành kiến về giới tính vẫn tồn tại. “Phụ nữ nên theo đuổi tham vọng của mình ở những lĩnh vực khác,” ông Zabielin, Giám đốc mỏ than, tỏ ra trầm ngâm trong văn phòng của mình. “Người phụ nữ là trụ cột của tổ ấm và gia đình”. Nhưng Zabielin thừa nhận rằng mỏ của ông có thể sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thuê thêm phụ nữ. Nhiều nam giới sẽ không bao giờ trở về từ mặt trận, và Ukraine sẽ phải duy trì một đội quân lớn ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc. “Người hàng xóm của chúng tôi,” ông nói, ám chỉ nước Nga, “sẽ không chuyển nhà đi đâu cả.”
Oksana vẫn nhớ cuộc sống cũ và công việc cũ nhưng cô không có ý định rời bỏ công việc mới. Cô nói, cô đã quen với tiếng ồn, bóng tối, bụi bặm và lối đi dài thăm thẳm dưới lòng đất. “Dù sao thì nó cũng không đáng sợ như chiến tranh.”
Nguồn: FB Cù Tuấn