Thuế bảo hộ ngược

Nguyễn Minh Đức – Chuyên gia Chính sách công 

Cách đây vài năm, tôi có dịp nghe các doanh nghiệp phân bón than phiền rằng chính sách thuế giá trị gia tăng đang bảo hộ ngược, khiến phân bón trong nước kém cạnh tranh so với hàng nhập khẩu.

Theo quy định hiện hành, phân bón vốn thuộc diện không chịu thuế. Những tưởng không chịu thuế thì sướng, ai ngờ lại khổ, vì không chịu thuế đồng nghĩa với việc không được khấu trừ thuế đầu vào. Mà tỷ trọng thuế đầu vào của sản xuất phân bón là rất lớn.

Lãnh đạo một công ty phân bón lớn nói thẳng: “Tôi sợ chính sách thuế sẽ khiến ngành phân bón giật lùi về công nghệ sản xuất”, vì doanh nghiệp không muốn đầu tư. Càng đầu tư máy móc nhà xưởng hiện đại thì chi phí thuế đầu vào không được khấu trừ càng tăng, đẩy giá thành sản phẩm lên cao, khó thu hồi vốn. Trong khi đó, phân bón nhập khẩu lại không phải chịu đồng thuế giá trị gia tăng nào, kể cả nộp cho Việt Nam lẫn cho nước xuất khẩu.

Thế mới có chuyện ngược đời: các doanh nghiệp trong nước xin được chuyển sang diện đóng thuế, vì chỉ khi đó họ mới được bình đẳng với hàng hóa nhập khẩu. 

Thuế GTGT của Việt Nam có bốn nhóm đối tượng: 10%, 5%, 0% và không chịu thuế. Nhiều người nhầm lẫn giữa diện 0% và diện không chịu thuế. Cả hai đều không có thuế đầu ra, nhưng diện 0% được khấu trừ thuế đầu vào và chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu, còn diện không chịu thuế không được khấu trừ đầu vào và áp dụng cho hàng tiêu dùng trong nước.

Trên thực tế, doanh nghiệp sản xuất hàng không chịu thuế vẫn phải gián tiếp nộp một số thuế GTGT nhất định thông qua việc chi trả các chi phí đầu vào. Mức thuế này sẽ chạy từ 0% đến 10%, phụ thuộc các nguyên liệu đầu vào chịu thuế đến đâu.

Điều này cũng không có gì đáng nói với một nền kinh tế đóng. Nhưng hiện nay, nền kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ, nhiều hàng hóa thuộc diện không chịu thuế được nhập khẩu. Hàng hóa này khi vào Việt Nam thì không phải nộp thuế GTGT, và khi ra khỏi nước xuất khẩu thì đã được chính phủ nước đó hoàn thuế GTGT đầu vào.

Đến đây nảy sinh một sự bất công. Cùng một loại hàng hóa, sản xuất trong nước thì phải nộp thuế GTGT gián tiếp qua chi phí đầu vào, còn nhập khẩu thì không phải nộp đồng thuế GTGT nào, cho bất kỳ chính phủ nào.

Trước đây, Việt Nam duy trì thuế nhập khẩu khá cao, lợi thế về thuế GTGT của hàng nhập khẩu này bị thuế nhập khẩu triệt tiêu. Nhưng khi Việt Nam tham gia nhiều FTAs, thuế nhập khẩu giảm về không, tác động bảo hộ ngược của thuế gia trị gia tăng này ngày càng lộ rõ.

Ví dụ một doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước đang phải nộp thuế GTGT gián tiếp khoảng 8% trong các hóa đơn đầu vào. Trong khi đó, thuế nhập khẩu của nhiều loại phân bón đã giảm về 0%. Tức là nếu có hai nhà máy phân bón giống hệt nhau đặt tại Việt Nam và Thái Lan, cùng bán hàng hoá trên thị trường Việt Nam, thì hàng sản xuất trong Việt Nam đang có chi phí thuế cao hơn khoảng 8% so với hàng từ Thái Lan. Mức thuế này khiến các nhà máy sản xuất phân bón trong nước điêu đứng.

Chuyện bảo hộ ngược (khuyến khích nhập khẩu hàng hóa thay vì sản xuất trong nước) xuất hiện ở nhiều mặt hàng không chịu thuế khác như nông sản, phần mềm, máy nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và một số loại máy móc, vật tư, thiết bị… Mỗi mặt hàng lại có mức độ chênh lệch thuế khác nhau, phụ thuộc vào cấu thành các chi phí đầu vào.

Mỗi khi đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTAs) chúng ta luôn phải cân lên đặt xuống mỗi khi hạ một dòng thuế nhập khẩu. Bởi việc mở cửa cho hàng hóa nước ngoài, tức là đang tước đi việc làm của người lao động trong nước. Chúng ta thường chỉ chấp nhận mở cửa, nếu nước đối tác cũng đáp ứng nguyên tắc có đi có lại. Thế nhưng, chính sách thuế giá trị gia tăng như hiện nay đã mở toang thị trường Việt Nam cho một số loại hàng hóa nước ngoài mà không đổi lại lợi ích gì cho đất nước.

Theo tôi, Bộ Tài chính đã nhìn thấy vấn đề này từ lâu, nhưng chưa đưa ra được giải pháp nào khả thi. Bộ cũng muốn đẩy các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế, nhưng mức thuế suất mới là bao nhiêu sẽ gây tranh cãi.

Nếu đẩy toàn bộ mặt hàng diện không chịu thuế sang 0% thì ngân sách phải hoàn thuế với số tiền khổng lồ, nguy cơ gian lận thuế rất cao. Chắc chắn Bộ Tài chính không thích.

Nếu đẩy các mặt hàng không chịu thuế sang mức 5% thì sẽ có phản ứng khác nhau. Các mặt hàng có chi phí thuế GTGT chưa được khấu trừ trên 5% sẽ ủng hộ. Nhưng các mặt hàng có chi phí thuế GTGT chưa được khấu trừ dưới 5% sẽ phải nộp thêm thuế. Đương nhiên họ không thích điều này.

Nếu đẩy các mặt hàng không chịu thuế sang các mức thuế tương ứng với mặt hàng đó như 1% với nông sản, 2% đối với phần mềm, 3% với thức ăn chăn nuôi… thì sẽ nảy sinh các mức thuế rất lắt nhắt. Doanh nghiệp trong nước về cơ bản sẽ không phải nộp thêm đồng nào do thuế đầu ra đúng bằng thuế đầu vào và được khấu trừ. Ngân sách sẽ thu được thêm thuế từ hàng nhập khẩu và bảo đảm công bằng giữa hàng trong nước và nhập khẩu.

Còn một phương án nữa là đặt ra mức thuế giá trị gia tăng dành riêng cho hàng hóa nhập khẩu (ví dụ 5%) và giữ nguyên quy định đối với hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nhưng như thế lại có rủi ro vi phạm cam kết thương mại quốc tế về đối xử quốc gia, theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ đối xử với hàng nhập khẩu không kém thuận lợi so với hàng trong nước.

Phương án nào cũng có thiệt hơn, nhưng rõ ràng đây là vấn đề cần xử lý, vì một chính sách thuế bảo hộ ngược là điều không thể tiếp tục kéo dài nếu chúng ta muốn sản xuất trong nước phát triển.

N.M.Đ.

Nguồn: VNExpress

  

This entry was posted in Chính sách thuế, kinh tế. Bookmark the permalink.