Hà Dương Tường
Thân tặng Đặng Tiến(*)
Chủ đề của cuốn sách là doanh nhân Bùi Huy Tín, một nhân vật nổi tiếng của Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, và hai tờ báo mà ông sáng lập, làm chủ nhiệm, cũng nổi tiếng không kém, nhưng vì lý do nào đó mà cả con người và sự nghiệp của ông ít nhiều đã bị lãng quên trong trí nhớ tập thể hiện nay.
Tác giả sách là nhà nghiên cứu sử Trần Viết Ngạc, nguyên Giáo sư Đại học Sư phạm TPHCM. Trang mạng của Đại học này (đề ngày 25/03/2011) cho thấy ông có một danh mục 43 tác phẩm, cả sách và bài nghiên cứu khoa học trước năm 2001, nhưng tới nay ông vẫn nghiên cứu và viết sách, báo. Chẳng hạn, ngoài cuốn đang được giới thiệu (Nxb Hồng Đức 2023), báo Tuổi trẻ ngày 23/07/2020 có bài phỏng vấn ông nhân cuốn sách Góp nhặt – Tìm hiểu lịch sử Việt (Nxb Hội nhà văn) mới ra đời.
Sách dày 280 trang khổ 16x28cm, mở ra với Lời giới thiệu của nhà sử học Dương Trung Quốc, gồm 6 chương và một Phụ lục.
Chương 1, theo nhận xét của ông Dương, chỉ trong 10 trang (không kể cả 6 trang hình ảnh), người ta được biết về "Thân thế và sự nghiệp" của Bùi Huy Tín "nhiều hơn tất cả những gì đã được viết (về nhân vật này) trong những ấn phẩm đã xuất bản". Trước hết, ông là một doanh nhân thành đạt, một nhà thầu uy tín với những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở của nhiều tuyến đường sắt ngay từ đầu thế kỷ 20, với nước suối Vĩnh Hảo, nhiều đồn điền ở Bắc và Trung bộ, nổi tiếng là người giàu thứ tư ở Bắc bộ… Bạn đọc có thể xem toàn chương đã được đăng trên Diễn đàn thế kỷ từ trước khi sách được xuất bản.
Tuy nhiên, như tên sách cho thấy, đó không phải là khía cạnh được tác giả nhấn mạnh trong sự nghiệp của nhân vật rất đáng được ghi danh vào sử sách này.
Phần chính của sách, các chương II – VI, từ trang 23 đến trang 187, được dành cho hai tờ báo mà ông là sáng lập viên, đồng thời là linh hồn trong suốt quãng thời gian đầy biến động mà chúng tồn tại. Tờ Thực nghiệp dân báo (gọi tắt là Thực nghiệp), từ tháng 2.1930 đến tháng 6.1935, và tờ Tràng An báo với phiên bản tiếng Pháp, La Gazette de Huế, ra đời đầu tháng 3.1935, ba tháng trước khi Thực nghiệp đình bản, và sống tới đầu năm 1945 tuy bản thân ông Bùi Huy Tín "do tuổi cao" đã phải bán lại đứa con tinh thần của mình vào giữa năm 1942 cho một người Pháp, bà Lucie Saillard.
Thực nghiệp được khảo sát trong bốn chương II-V. Chương II trình bày chung về tờ báo, hình thức và những nội dung chính, được ghi trên măng-sét: "Cơ quan hữu ích về đường phổ thông, về việc truyền bá học thuật, tư tưởng và âm tín, về việc nghiên cứu và tổ chức mọi việc của vạn gia Thực nghiệp" (tr.27), và như tác giả chỉ ra, dù không công bố nhưng rõ ràng tờ báo tự cho mình nhiệm vụ Khai dân trí và Chấn dân khí của Phan Châu Trinh. Ngoài những bài về kinh tế, báo có nhiều bài lược khảo về các quốc gia trên thế giới, và đáng chú ý là đã đăng toàn bộ bản dịch cuốn Vạn pháp tinh lý (De l’Esprit des Lois) của Montesquieu. Bản dịch của Kiềm Thu được đăng trong 133 số báo, liên tiếp từ ngày 9/12/1927 đến 30/6/1928. Theo tác giả, "Thực nghiệp vẫn là tiếng nói của giới công thương nghiệp, của các nhà tư sản bản xứ", nhưng từ năm 1925 đến 1930, nhiều sự kiện chính trị quan trọng đã diễn ra trên đất nước, và tờ báo đã dành nhiều bài vở cho chúng.
Cụ thể, chương III thống kê các bài vở chung quanh phong trào đòi trả tự do cho nhà chí sĩ Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc ở Trung Quốc và đưa ra toà Đề hình xét xử (ngày 23/11/1925). "Trong hai tháng rưỡi, từ ngày chính quyền đưa nhà ái quốc ra toà Đề hình (từ (…), 34 số báo Thực nghiệp đăng tin tức toà án, phản ánh dư luận trong toàn quốc cùng các bài xã luận của độc giả, của đồng nghiệp, Thực nghiệp đã trở thành tờ báo quan trọng nhất, đóng góp nhiều nhất cho phong trào đòi trả tự do cho Phan Bội Châu". Tác giả cũng nhấn mạnh tới loạt bài tương thuật của Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, đăng liên tiếp trong 4 số báo, với gần 13 cột báo, khoảng 5.500 chữ, và trích đăng một số đoạn của nhà báo mới 21 tuổi này trong gần 3 trang sách (từ tr.58 tới 60).
Chương IV giới thiệu hoạt động của Thực nghiệp trước và trong những ngày lễ tang Phan Châu Trinh. Trước, "như một tiên cảm"; tờ báo đã dành 6 số trong tháng 1.1926 để đăng hai bài diễn thuyết (Đạo đức và luân lý đông tây, Quân trị và Dân trị chủ nghĩa). Từ ngày 26/3/1926, khi được tin cụ Phan qua đời cho đến ngày 31/3, lễ tang được tiến hành ở Sài Gòn, rồi những lễ truy điệu được tổ chức khắp nước, khép lại là lễ truy điệu trong hai ngày 8 và 9/4 ở Hà Nội, Thực nghiệp liên tiếp có bài tường thuật và đăng lại những bài điếu văn tiêu biểu. Cuốn sách cũng đăng lại ba bài điếu văn, của Phan Bội Châu (trong lễ truy điệu tại Huế), Ngô Đức Kế và Bùi Kỷ trong lễ truy điệu tại Hà Nội.
Chương V, nói về vai trò của Thực nghiệp đối với vụ khởi nghĩa Yên Báy và những sự kiện tiếp theo,"kéo dài hơn 7 tháng" kể từ ngày cuộc khởi nghĩa nổ ra (10/2/1930). Tuy nhiên, nếu ở đầu trang 92, tác giả cho biết trong thời gian ấy tờ báo đã đăng "83 bài và tin nếu không kể tin 84, ngày 9/3/1931", thì trong "thống kê" tiếp theo ông chỉ kể ra (tít bài báo và tóm tắt nội dung) 69 bài, trong đó 68 bài đầu là từ 10/2/1930 đến ngày 7/7/1930 rồi nhảy sang bài thứ 69 là bản tin ngày 9/3/1931. Mấy dòng sau đó (tr.152), ông cũng nhắc lại: "Vậy là từ ngày 10/2/1930 khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu cho đến ngày 9/3/1931, thời gian hơn một năm với 321 số báo, Thực nghiệp dân báo đã đăng tất cả 69 bài và tin về cuộc khởi nghĩa Yên Báy và các tỉnh ở Bắc Kỳ...". Bỏ qua khác biệt về những con số ấy (dù vì lý do gì, cần được chỉnh sửa trong lần tái bản tới), người đọc có thể thấy qua những tường thuật của báo (trên sách là tóm tắt như đã nói, dài ngắn khác nhau) diễn biến của cuộc khởi nghĩa, phản ứng của nhà cầm quyền Pháp – chủ yếu là đàn áp, bắt bớ và xử phạt nặng nề, với rất nhiều án tử hình –, cũng như tinh thần bất khuất của những nhà cách mệnh mà tên tuổi được ghi lại. Vài bài đáng chú ý: bài Tường trình việc biến động ở Yên Báy trên số báo ra ngày 8/3/1930, tường thuật phiên toà đề hình thứ nhì ở Yên Báy trên số báo ngày 29/3/1930, với các câu trả lời toà của Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Thị Bắc…, hay bài Cô Giang tự tử trên số báo ngày 22/6/1930. Có thể nói như tác giả cuốn sách: Thực nghiệp Dân báo đã làm được một công việc lớn là vinh danh các người con hào hùng của dân tộc, khắc sâu hình ảnh của họ trong lòng độc giả... (in đậm trong sách, tr. 254). Đây cũng là chương dài nhất trong sách (64 trang).
Nhưng chương VI, giới thiệu Tràng An báo và phiên bản tiếng Pháp của nó mới cho người đọc thấy nhiều hơn về đam mê làm một tờ báo học thuật của Bùi Huy Tín. Tác giả cho biết tuy Tràng An báo ra đời 15 năm sau Thực nghiệp, nhưng ông đã ấp ủ nó ngay từ khi thành lập nhà in Đắc Lập ở Huế năm 1920: đồng thời với việc cho ra đời tờ Thực nghiệp ở Hà Nội ông đã tâu lên vua (Khải Định) là "nên lập một báo quán ở Kinh đô nhưng các quan tỏ ra ngần ngại vì cho rằng có quá ít độc giả" (tr.15). Nhưng, cũng ở Huế năm 1927 cụ Huỳnh Thúc Kháng đã cho ra đời tờ Tiếng dân, huy động được nhiều trí thức tên tuổi như Đào Duy Anh, Hải Triều, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Diểu… và chủ động được về tài chánh nhờ sự ủng hộ rộng rãi của nhiều cổ đông. Và theo tác giả, khi Thực nghiệp sống ngắc ngoải trong hai năm cuối, "có thể là do người sáng lập Bùi Huy Tín đang gắn bó với Huế và muốn ra mắt ở Huế tờ báo mà mình ấp ủ từ lâu" (tr.155). Tuy chỉ được tóm gọn trong một chương so với 4 chương dành cho Thực Nghiệp, Tràng An báo được giới thiệu một cách tổng quát hơn, với nhiều thông tin hơn về nội dung và công việc của toà báo. Chẳng hạn, trong suốt 4 chương II-V, người ta chỉ biết Thực nghiệp do hai nhà công thương hàng đầu ở Bắc kỳ lúc đó là Bùi Huy Tín và Nguyễn Hữu Thu sáng lập, "với sự cộng tác của một trí thức, ông Bùi Đình Tá" (tr. 23). Không có tên chủ bút, cộng tác viên cũng chỉ một người được nói tới nhiều lần là Nhượng Tống qua loạt bài tường thuật phiên toà xử Phan Bội Châu – và một chú thích (tr.47) cho biết ông đã viết cho Thực nghiệp 25 bài trong năm 1924, 52 bài trong năm 1925, không có thêm thông tin nào khác. Một tên tuổi lớn của làng báo Việt Nam thời đó là Phan Khôi, độc giả cũng chỉ biết là ông "cũng đã từng cộng tác với Thực nghiệp" trong phần giới thiệu Tràng An báo mà ông là chủ bút. Ở đây, bên cạnh Phan Khôi, tác giả cũng kể tên "một đội ngũ biên tập và cộng tác hùng hậu" gồm những người như Hoài Thanh, Nam Trân, Trần Thanh Mại, Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Khoang, Bùi Ái, Phan Thị Nga… (tr.169). Cuộc tranh luận giữa Hoài Thanh với Hải Triều trong 4 số báo và "diễn đàn nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh" với Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư cũng được ghi lại. Tác giả cũng không quên nhắc lại những bài báo quyết liệt "phủ định" Nam triều của Phan Khôi, và nhân đó, khẳng định nguyên tắc làm báo của chủ nhiệm Bùi Huy Tín là tất cả các bài báo trên Tràng An, bất cứ là do ai viết, ông là người chịu trách nhiệm và đồng tình với tác giả : "Ông Phan Khôi viết những bài nói động chạm đến các nhà tai mắt, nhưng chúng tôi có bằng lòng thì các bài ấy mới được đăng chớ. Nói một cách khác, thái độ ông Phan Khôi trên báo Tràng An tức là thái độ của báo Tràng An và thái độ của tôi vậy" (tr.163, in đậm trong sách). Một thái độ đầy tinh thần trách nhiệm mà dĩ nhiên người ta không còn có thể thấy ở các báo "cùng chung một tổng biên tập" hiện nay !
Phần Phụ lụchơn 100 trang gồm một bài viết của Bùi Huy Tín nhân "nhị thập chu niên Đắc Lập ấn quán", Lời chào ra mắt tờ La Gazette de Huế kèm bản dịch của Phạm Thị Anh Nga và vài bài khác nói về Bùi Huy Tín của con gái (nhà văn Bùi Bích Hà, hiện đã qua đời) cũng như của vài cây bút khác.
Nói tóm lại, dù chưa phải là một chuyên khảo thật đầy đủ về doanh nhân – trí thức Bùi Huy Tín và hai tờ báo mà ông sáng lập, cuốn sách là một đóng góp đáng quý của tác giả, sử gia Trần Viết Ngạc, vào việc tìm hiểu nhân vật lịch sử có vị trí quan trọng này, mà sử sách hiện tại cho tới nay vẫn chưa chú ý và nhất là trân trọng (chữ của ông Dương Trung Quốc) đúng mức. Cũng như đối với nhiều nhân vật khác của thời kỳ Pháp thuộc nói chung. Không nói đâu xa, chẳng hạn như các ông Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu, Hoàng Trọng Phu, cùng với Bùi Huy Tín là bốn đại gia của Bắc Kỳ trong câu "Nhất Bưởi, nhì Thu, tam Phu, tứ Tín" mà tác giả nhắc lại nhiều lần trong sách. Liệu có thể tin rằng, cũng như cuốn sách này, những tác phẩm tương tự về các nhân vật ấy sẽ sớm vượt qua bộ lọc của Tuyên giáo để đến với bạn đọc?
(*) Tác giả Trần Viết Ngạc đã gửi tặng sách cho nhà phê bình Đặng Tiến, nhờ chị BTP mang sang Pháp và chị P. lại nhờ người viết bài này gửi xuống Orléans cho anh. Nhưng anh Tiến lúc ấy đang nằm viện, đã có nhã ý cho người viết mượn đọc trước, "lúc nào khoẻ tôi sẽ đọc sau". Sau khoảng 10 ngày, sách đã được gửi về Orléans trả lại anh cùng với bản thảo đầu tiên của bài viết này, không biết anh đã có dịp đọc chưa. Nay Anh đã đi xa, xin đăng bài viết nhỏ này như một nén hương tưởng nhớ tới Anh.
H.D.T.
Nguồn: diendan.org