(hay Lại tản mạn thêm về hai chữ… Tham nhũng)
Nguyễn Duy Vinh
Trong đạo Phật tôi thường đọc đến hai chữ “quán chiếu” (dịch sang tiếng Anh có chữ “reflect” hay “deep looking”). Chữ “deep looking” hay hơn, có nghĩa là nhìn sâu. Nhìn sâu để hiểu. Và có nhìn sâu mới tìm ra được những nguyên nhân của vấn đề mình đang quan tâm. Vấn đề này có thể là một công án thiền và cũng có thể là một hay những khổ đau mình đang gánh chịu.
Đức Phật đi tu vì Ngài đã chạm trán và quan tâm đến khổ đau. Có người còn mạnh dạn nói: “lấy khổ đau đi thì đạo Phật sẽ không còn”. Và chính vì sự quan tâm rất lớn này mà đức Phật đã đi tìm, đã bôn ba lặn lội vào cuộc đời, tầm sư học đạo và chính Ngài cuối cùng đã tìm được câu trả lời, từ lúc nhận diện được sự có mặt của khổ đau cho đến lúc tìm ra đâu là nguyên nhân của khổ đau. Đến khi nhận thức được hạnh phúc là điều có thật khi khổ đau vắng mặt, Ngài đã tìm ra con đường đưa đến sự vắng mặt của khổ đau tức là tám con đường của sự hành trì chân chính (hay nói văn hoa mỹ tự hơn theo chữ Hán Việt là Bát Chánh Đạo). Và từ đó đạo Phật ra đời, không ngoài mục đích giúp con người, giúp những ai muốn hành trì theo lời dạy của đức Phật, sống bớt khổ và yên vui hạnh phúc hơn.
Nhiều người sẽ nói đó là chuyện tâm linh quá cao siêu không nhằm nhò gì đến đời sống thường nhật của tôi, vì chúng tôi là phàm phu tục tử chỉ biết sống theo những gì văn hóa và truyền thống đã an bài thôi. Theo tôi, đây là nói cố, vì nếu đó là văn hóa Việt Nam thì đạo Bụt cũng như đạo thờ ông bà đã có và đã ăn nhập vào đời sống dân gian ta từ ngót gần hai nghìn năm. Và ở đây tôi cũng xin đóng thêm một ngoặc đơn nữa cho nó đầy đủ hơn là cái gọi là văn hóa Việt Nam đó sau này cũng đã được làm giàu thêm bởi các đạo khác như đạo Khổng, đạo Lão và ở thế kỷ 19 với sự du nhập của đạo Chúa vào Việt Nam.
Chúa Giê Su răn dạy “con người phải yêu thương đồng loại mình như Chúa đã từng yêu thương mình (“aimez-vous les uns les autres comme je vous ai aimé”).
Cách sống biết thương yêu những người quanh mình này cũng là nền tảng của con đường đưa đến hạnh phúc. Và những tôn giáo như thế rất cần thiết cho xã hội loài người và nhất là cho xã hội nhiễu nhương như xã hội Việt Nam hiện nay. Hai đạo Phật và đạo Chúa có thể đóng góp rất khả quan vào tiến trình xây dựng một nước Việt Nam lành mạnh an vui.
Bây giờ tôi xin tạm gác cái cao siêu về tâm linh ấy qua một bên và chỉ nhìn qua lăng kính khoa học của các nhà tâm lý học. Chúng ta thấy tuệ giác của đạo Phật đã để lại cho chúng ta một kho tàng quý giá về sự hiểu biết của cái Tâm phức tạp của con người, tức là sự hiểu biết về tâm lý nhân sinh.
Tâm lý học của đạo Phật đếm được cả thảy 51 anh chàng “tâm” (còn được gọi là tâm sở) khi những anh chàng này biểu hiện (theo những bài học về duy biểu).
Mỗi tâm ấy khi biểu hiện trong tâm thức đều có khả năng dẫn dắt ta đi vào những nẻo đường khác nhau. Tỉ dụ khi anh tâm “nhìn sai” (SI) năng động, rồi anh tâm “cáu giận” (SÂN) trồi lên, ta có thể nói hoặc làm những chuyện đáng tiếc và đôi khi đáng trách. Tương tự như hành động của chồng nàng thiếu Phụ Nam Xương ngày xưa. Sự lạnh lùng và cách đối xử của anh chồng đã đưa vợ và con mình đi vào một thảm cảnh rất thương tâm chỉ vì hiểu lầm vợ, một người đàn bà tiết tháo đảm đang và có một tấm lòng chung thủy.
Hoặc khi “anh tâm yêu” (ÁI DỤC) xâm chiếm tâm hồn, ta có thể bỏ hết để chạy theo tình yêu. Nguyễn Bính đã phải thốt lên: khi yêu thì chỉ có Trời kíu!
Còn một tâm ghê gớm nữa là tâm ham muốn (THAM). Ham muốn làm giàu. Đưa đến những tình trạng thụt két, lấy tiền của dân, hay cưỡng chế đất như những vụ tham nhũng lớn hiện nay ở Việt Nam. Tác dụng của TÂM rất đáng sợ.
Tôi không phải là một nhà tâm lý học, và tôi cũng chỉ mới tập tễnh bước đi trên đại lộ của đạo Bụt rộng thênh thang nên tôi chưa đủ thẩm quyền nói thêm về những hoạt động của các “anh tâm” này (đôi khi được gọi là tâm hành hay tiếng Anh là “mental formations”).
Bài tản mạn của tôi ở đây chỉ xin chú trọng đến cách nhìn sâu để hiểu của một người bình thường lớn lên trong một xã hội loạn ly.
Tôi được may mắn đi học ở nước ngoài. Là một kỹ sư, một sinh viên đã được huấn luyện về khoa học cắt xén (building blocks) của Newton và Descartes, cái nhìn của tôi có tính cách thực dụng khi làm việc trong một phòng thí nghiệm hay khi phải tìm ra giải đáp cho những vấn đề của cuộc sống.
Trong mọi tình huống, chúng ta phải cố gắng và chú tâm. Cuối cùng chúng ta sẽ thành công và tìm ra được nguyên nhân sâu xa của tình huống đó. Tỉ dụ như chuyện hôn nhân của hai người trẻ. Chúng ta có thể bắt đầu bằng một câu hỏi:
Tại sao cuộc tình duyên của hai người trẻ đó tan vỡ?
Tại vì cô nàng bỏ chàng trai theo một một thanh niên khác.
Tại sao em lại bỏ anh để theo cái thằng “phải gió” đó? (lúc mình giận lên thì mình gọi đối phương của mình là thằng phải gió và đây là cách nói rất chủ quan của người trong cuộc, một cách dùng từ rất Việt Nam). Và câu trả lời đầu tiên đến từ cô gái: vì em gặp một thằng bạn mới nó vừa đẹp “giai” vừa không bủn xỉn như anh.
Tức là thằng phải gió ấy nó có tán tỉnh em và chính em cũng chưa bao giờ yêu anh thực sự. Vì cô nàng, còn trẻ, chạy theo tình yêu qua cái bề ngoài hào nhoáng và cách tiêu tiền của chàng đối với nàng (yêu kiểu này quả thật nguy hiểm và chết người). Ở đây câu trả lời cho cái tại sao thứ nhì cho chúng ta thoáng thấy ngay nguyên nhân việc nàng bỏ chàng ra đi. Nhưng nó cũng cho thấy đây là một tình yêu không chín chắn, một tình yêu hời hợt (frivole). Và đi xa hơn thì ta thấy chính chữ yêu nó cũng đã rất phức tạp rồi và hàm số yêu chắc chắn là một hàm số tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không đơn giản và chúng ta có thể tiếp tục đặt câu hỏi để cuối cùng luận ra nguyên nhân sâu xa.
Khi đem cách nhìn sâu để hiểu này vào những bài toán xã hội trong đó có sự sinh hoạt của cái tâm con người thì vấn đề lại càng phức tạp gấp bội. Vì cái tâm đó có tới 51 tâm sở phức tạp luôn sẵn sàng gây khó khăn hơn cho ta trong việc đi tìm nguyên nhân. Trong một vấn đề có tính cách xã hội nhân quần, ta cần đặt nhiều câu hỏi và nhìn sâu hơn. Từ đó có thể ta sẽ tìm được những giải pháp.
Cũng như những bác sĩ chẩn bệnh, những triệu chứng do căn bệnh gây ra trên cơ thể bệnh nhân giúp người thầy thuốc chẩn bệnh chính xác hơn. Thảm kịch tham nhũng ở Việt Nam cũng như những án oan trong nước hiện nay đem đến rất nhiều dữ kiện cho người thầy thuốc (nhà nước) nếu vị thầy thuốc này có quyết tâm diệt trừ căn bệnh. Và ngoài sự quyết tâm đó, tìm ra những giải pháp thích đáng cho một vụ án oan hay một vụ án tham nhũng còn đòi hỏi một cuộc điều tra nghiêm túc, một sự tìm tòi nhìn sâu. Nhìn sâu để hiểu. Khi hiểu thấu đáo rồi thì việc giải quyết công bằng sẽ dễ như trở bàn tay nếu chúng ta có trong tay đầy đủ những công cụ điều hành cần thiết. Và ở đây chúng ta sẽ gặp một số trở ngại lớn vì cơ chế điều hành không hoàn hảo và còn có những thiếu sót trầm trọng. Một trong những thiếu sót lớn về công cụ điều hành là tính độc lập của hệ thống luật pháp Việt Nam.
Trong tiến trình tố tụng và xử án ở các xứ bên trời Âu Mỹ, bất cứ một vụ án lớn nào đều phải có sự hiện diện của một bồi thẩm đoàn (membres du jury) hoàn toàn độc lập với phe tố tụng và phe bị cáo. Và ông tòa (chánh án) xử án dựa trên kết luận của bồi thẩm đoàn. Bộ luật hình sự hiện nay ở Việt Nam tương đối khá tốt nhưng cách xử án ở VN hiện tại có tính cách thiên vị guồng máy nhà nước vì bị chính guồng máy này kiểm soát (Tòa Án Nhân Dân nhận chỉ thị của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và VKSND nhận chỉ thị từ Bộ Chính Trị).
Trở ngại to tát thứ hai là sự sợ hãi. Chiến tranh dai dẳng mà nước ta đã gánh chịu qua rất nhiều năm. Thêm vào đó, khi chiến tranh chấm dứt, người dân hai miền đã phải sống qua những áp lực và khó khăn gây ra bởi những chính sách hậu chiến tranh của nhà nước, tạo cho người dân từ Nam chí Bắc một nỗi lo âu sợ hãi. Và đây là một căn bệnh của người Việt chúng ta, nó ăn vào xương vào tủy của rất nhiều người Việt Nam. Thêm vào đó, sự lạm quyền (và nhất là sự lộng quyền) của những quan chức địa phương như các vị chủ tịch các ủy ban nhân dân tỉnh huyện xã làm người dân bình thường lo sợ thêm mỗi khi thấy bóng dáng của các vị này và nhất là khi chính mình bị mời lên làm việc ở một văn phòng bộ công an. Sự sợ hãi này sẽ làm cho những nhân chứng quan trọng trong bất cứ vụ án nào ở Việt Nam im hơi lặng tiếng. Họ sợ dây vào thì sẽ bị liên lụy sau đó vì những đe dọa hoặc những cuộc trả thù thẳng tay.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là nhà nước (vị thầy thuốc chữa bệnh tham nhũng) có chính sách nào để lấy đi sự sợ hãi của người dân trước bộ máy của nhân viên an ninh (tức là cảnh sát và công an) nhà nước? (hay là nhà nước ngược lại đang củng cố sự sợ hãi này để dễ trị dân và giữ trật tự trong nước?).
Ngoài ra cách dùng những nhân viên dân sự (không làm việc cho nhà nước) mà các báo lề trái thường gọi là xã hội đen (hay côn đồ) để áp đảo dân biểu tình kêu oan hay để dẹp “loạn” là việc thường thấy nhắc đến rất thườg xuyên trên những báo lề trái này.
Trở ngại thứ ba là tự do báo chí trong nước. Chúng ta có hơn mấy trăm tờ báo chính thống trên mạng nhưng không tờ báo nào cho chúng ta những tin tức có thể tin cậy được hoàn toàn trừ những tin tức vô thưởng vô phạt thường nhật như tai nạn xe cộ hay những án mạng trong nước.
May mắn thay, chúng ta có những nhà hoạt động cho nhân quyền trong nước rất đáng phục vì họ có rất nhiều can đảm và một tấm lòng cương trực. Họ đã dám viết lên những bài phân tích tự do về cách cai trị và điều hành guồng máy quốc gia của nhà nước. Nhưng những hoạt động này phần lớn đang bị nhà nước tiếp tục đàn áp thẳng tay và những vấn nạn và bất công ở Việt Nam ngày càng chồng chất.
Nói tóm lại, một thay đổi trong cơ chế nhà nước về luật pháp để hệ thống luật pháp được độc lập, một chính sách cai trị dùng nhân viên công lực ngay thẳng và có lòng nhân ái, và sự nới rộng về tự do báo chí là ba điều cần phải làm để xây dựng một xã hội an lành hơn.
N.D.V.
Tác giả gửi BVN 2023