Kishore Mahbubani, “Asia’s Third Way,” Foreign Affairs, Tháng 3-Tháng 4/2023
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
ASEAN đã tồn tại và phát triển trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc như thế nào?
Cuộc cạnh tranh địa chính trị đang định hình thời đại của chúng ta là cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong lúc căng thẳng gia tăng xoay quanh vấn đề thương mại và Đài Loan, cùng nhiều vấn đề khác, có thể hiểu được tại sao nhiều quốc gia lại ngày càng lo ngại về một tương lai được định hình bởi sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Tuy nhiên, một khu vực đã tự tạo ra con đường hòa bình và thịnh vượng xuyên qua kỷ nguyên lưỡng cực này. Nằm ở trung tâm địa lý của cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc, Đông Nam Á không chỉ cố gắng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Bắc Kinh và Washington, đi dây ngoại giao để giữ vững lòng tin của cả hai bên, mà còn khiến Trung Quốc và Mỹ đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển của mình.
Đây là một kỳ công không hề nhỏ. Ba mươi năm trước, nhiều nhà phân tích tin rằng châu Á chắc chắn sẽ xảy ra xung đột. Như nhà khoa học chính trị Aaron Friedberg đã viết vào năm 1993, châu Á có khả năng trở thành “tuyến đầu của xung đột giữa các cường quốc” (the cockpit of great-power conflict) cao hơn nhiều so với châu Âu. Về lâu dài, ông dự đoán, “Quá khứ của châu Âu có thể là tương lai của châu Á”. Nhưng, dù sự ngờ vực và cạnh tranh vẫn tiếp diễn – đặc biệt là giữa Trung Quốc và Nhật Bản, cũng như giữa Trung Quốc và Ấn Độ – châu Á hiện đang ở thập niên thứ năm của một nền hòa bình tương đối, trong khi châu Âu một lần nữa xảy ra chiến tranh. (Xung đột lớn gần đây nhất ở châu Á, Chiến tranh Việt-Trung, đã kết thúc vào năm 1979). Đông Nam Á vẫn có những xung đột nội bộ nhất định – đặc biệt là ở Myanmar – nhưng nhìn chung, khu vực này rất yên bình, không hề có xung đột giữa các quốc gia, dù các sắc tộc và tôn giáo ở đây cực kỳ đa dạng.
Đông Nam Á cũng đã phát triển thịnh vượng. Trong khi mức sống của người Mỹ và người châu Âu giảm sút trong 20 năm qua, người Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế và xã hội đáng kể. Từ năm 2010 đến năm 2020, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bao gồm 10 quốc gia với tổng GDP là 3 nghìn tỷ USD vào năm 2020, đã đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu so với Liên minh châu Âu, vốn có tổng GDP là 15 nghìn tỷ USD.
Giai đoạn phát triển và hòa hợp đặc biệt này ở châu Á không phải chỉ là ngẫu nhiên trong lịch sử. Nhưng nguyên nhân phần lớn là nhờ ASEAN, bất chấp những thiếu sót trong tư cách là một liên minh chính trị và kinh tế, đã giúp hình thành một trật tự khu vực có tính hợp tác, được xây dựng trên nền văn hóa thực dụng và thỏa hiệp. Trật tự đó đã giúp dàn xếp những chia rẽ chính trị sâu sắc trong khu vực và giúp hầu hết các nước Đông Nam Á tập trung vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nghịch lý thay, sức mạnh lớn nhất của ASEAN lại nằm ở việc họ tương đối yếu và không đồng nhất, qua đó đảm bảo rằng không một cường quốc nào coi họ là mối đe dọa. Như nhà ngoại giao Singapore Tommy Koh đã nhận xét, “Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ không thể đảm nhận vai trò lèo lái khu vực này vì họ không có chương trình nghị sự chung. ASEAN tự lèo lái được chính là vì ba cường quốc trên không thống nhất được với nhau. Và chúng ta có thể tiếp tục làm như vậy chừng nào các cường quốc vẫn thấy chúng ta trung lập và độc lập”.
Cách tiếp cận tinh tế và thực dụng của ASEAN trong việc quản lý cạnh tranh địa chính trị giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng được coi là hình mẫu cho các nước đang phát triển. Đại đa số dân số thế giới sống ở các nước phương Nam, nơi mà các chính phủ chủ yếu quan tâm đến phát triển kinh tế, chứ không muốn chọn phe trong cuộc cạnh tranh giữa Bắc Kinh và Washington. Trung Quốc đã tiến sâu vào khắp châu Phi, châu Mỹ Latinh, và Trung Đông. Nếu Mỹ muốn duy trì và làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực này, thì họ nên học hỏi từ câu chuyện thành công của ASEAN. Một cách tiếp cận thực dụng, “có tổng là dương” – chủ trương không nhắc đến những khác biệt chính trị trong quá khứ và sẵn sàng hợp tác với tất cả mọi quốc gia – sẽ được đón nhận nồng nhiệt hơn ở các nước phương Nam so với cách tiếp cận “có tổng bằng không,” vốn có mục đích phân chia thế giới thành các khối đối đầu.
HÒA BÌNH VÀ THỰC DỤNG
ASEAN không phải lúc nào cũng được xem là công bằng. Được thành lập với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Mỹ vào năm 1967, tổ chức này ban đầu bị Trung Quốc và Liên Xô lên án là một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc mới của Mỹ. Nhưng trong những thập niên gần đây, khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa nền kinh tế khổng lồ của mình, Bắc Kinh đã dần ủng hộ khối này. ASEAN ký hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc vào năm 2002, mở đường cho một sự phát triển thương mại ngoạn mục. Năm 2000, thương mại của ASEAN với Trung Quốc chỉ ở mức 29 tỷ USD – khoảng một phần tư thương mại của khu vực với Mỹ. Nhưng đến năm 2021, thương mại của ASEAN với Trung Quốc đã tăng vọt lên tới 669 tỷ USD, trong khi thương mại của khối này với Mỹ chỉ tăng lên 364 tỷ USD.
Thương mại với cả Trung Quốc và Mỹ đã giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế đáng chú ý của ASEAN. Tổng GDP của khu vực vào năm 2000 là 620 tỷ USD, bằng một phần tám GDP của Nhật Bản. Sang năm 2021, con số đã là 3 nghìn tỷ USD, so với 5 nghìn tỷ USD của Nhật. Và các dự đoán cho thấy nền kinh tế ASEAN sẽ lớn hơn Nhật Bản vào năm 2030. Rõ ràng, các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn giữa 680 triệu người sinh sống tại các nước Đông Nam Á và 1,4 tỷ người ở Trung Quốc đã mang lại lợi ích đáng kể cho ASEAN. Và quan hệ đôi bên cùng có lợi này chỉ mới khởi đầu. Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) – một hiệp định thương mại tự do giữa Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc, và các thành viên ASEAN – chính thức có hiệu lực vào tháng 1/2022 và có khả năng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhảy vọt đáng kể hơn trong thập niên tới.
Dù đang có quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc, ASEAN vẫn quyết tâm duy trì quan hệ gần gũi không kém với Mỹ. Tổng thống Mỹ Donald Trump gần như phớt lờ Đông Nam Á (như ông đã làm với phần còn lại của thế giới), nhưng Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nỗ lực hết mình để hợp tác với ASEAN, và các quốc gia thành viên của tổ chức đã hưởng ứng nhiệt tình. Tháng 5/2022, Biden tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Nhà Trắng với sự tham dự của hầu hết các nhà lãnh đạo chủ chốt của hiệp hội. Cuối tháng đó, chính quyền Biden khởi động Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF), nhằm mục đích tăng cường gắn kết kinh tế giữa Mỹ và các đối tác trong khu vực. Bảy trong số mười quốc gia thành viên của ASEAN đã ký tham gia IPEF, cùng với Australia, Fiji, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, và Hàn Quốc, một lần nữa chứng minh rằng ASEAN muốn duy trì mối quan hệ bền chặt với Washington.
Sự gần gũi về địa lý với Trung Quốc chắc chắn có nghĩa là ASEAN sẽ gặp nhiều thách thức khi đối phó với nước này hơn là với Mỹ. Hiện tại, đã nảy sinh các tranh chấp về Biển Đông và công nghệ 5G của Trung Quốc, cùng một số vấn đề khác. Trung Quốc hiện có tranh chấp lãnh thổ với bốn quốc gia ASEAN – Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam – nhưng cách hành xử của nước này ở Biển Đông đã làm ảnh hưởng đến quan hệ với tất cả các thành viên hiệp hội. Ví dụ, vào năm 2012, Trung Quốc đã gây sức ép buộc Campuchia, lúc đó là chủ tịch ASEAN, loại trừ bất kỳ đề cập nào nhắc đến xung đột trên Biển Đông trong một thông cáo chung sau cuộc họp cấp bộ trưởng ASEAN. Indonesia đã can thiệp để giải quyết bế tắc bằng cách làm trung gian giúp ASEAN đưa ra quan điểm chung một tuần sau đó. Nhưng Bắc Kinh tiếp đến lại xử lý sai quan hệ với Jakarta. Dù cái gọi là đường chín đoạn trên các bản đồ Trung Quốc – thể hiện các yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông – chạy sát quần đảo Natuna của Indonesia, Trung Quốc trước đó từng đảm bảo với Indonesia rằng hai bên sẽ không có yêu sách chồng chéo. Vào năm 2016 và 2020, các tàu cá Trung Quốc đã đi vào Vùng Đặc quyền Kinh tế của Indonesia, khiến Tổng thống Indonesia Joko Widodo phải thực hiện các chuyến thăm cấp cao tới quần đảo Natuna để tái khẳng định chủ quyền của nước ông tại khu vực.
Bản chất mơ hồ của đường chín đoạn có lẽ sẽ tiếp tục là một vấn đề gây khó chịu trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc. Và cả hai bên có lẽ sẽ không thể ký kết một bộ “quy tắc ứng xử” vốn đã được chờ đợi từ lâu ở Biển Đông, để làm giảm nguy cơ xung đột ở vùng biển tranh chấp. Nhưng cũng rõ ràng là văn hóa thực dụng đang bao trùm quan hệ ASEAN-Trung Quốc, ngăn xung đột lớn nổ ra. Brunei, Malaysia, Philippines, và Việt Nam đều đã tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc, bất chấp việc đang tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Trong quá khứ, Trung Quốc cũng đã có những thỏa hiệp thực dụng với các nước láng giềng ASEAN nhỏ hơn, bao gồm việc loại bỏ hai đoạn khỏi đường 11 đoạn ban đầu, như một sự thể hiện tình hữu nghị với Việt Nam vào năm 1952. Sẽ là khôn ngoan nếu Trung Quốc đưa ra những thỏa hiệp thực dụng tương tự về vấn đề này trong tương lai.
Một nguyên nhân gây xích mích khác trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc là chiến dịch toàn cầu của Washington nhằm chống lại việc triển khai công nghệ 5G của Trung Quốc. Lựa chọn hệ thống viễn thông 5G là quyết định cấp quốc gia, vì vậy ASEAN không có quan điểm chung về cách từng thành viên ứng xử với gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei. Tuy nhiên, chủ nghĩa thực dụng đặc trưng của hiệp hội này đã chiếm ưu thế, khi mỗi quốc gia thành viên đưa ra quyết định dựa trên nhu cầu của mình. Indonesia và Philippines đã ký hợp đồng xây dựng mạng 5G với Huawei, trong khi Malaysia, Singapore, và Việt Nam thì chưa. Những quyết định này chỉ ra rằng các nước ASEAN có cân nhắc đến quan ngại của người Mỹ, nhưng cân bằng chúng với lợi ích của chính họ trong việc tiếp cận công nghệ giá rẻ, mang lại lợi ích cho người dân nước họ.
Đôi khi, những lợi ích đó đòi hỏi các nước ASEAN phải phớt lờ những lo ngại của Mỹ. Mỹ đã vận động mạnh mẽ không kém để chống lại Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc, nhưng chiến dịch này về cơ bản đã thất bại: toàn bộ 10 nước ASEAN đã tham gia vào các dự án BRI khác nhau, và khu vực này là một trong những nơi nhận đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc nhiều nhất. Theo Angela Tritto, Albert Park, và Dini Sejko của Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong, tính đến năm 2020, các nước ASEAN đã khởi động ít nhất 53 dự án dưới sự bảo trợ của BRI.
Những dự án này đã mang lại phần thưởng đáng kể. Lào vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, nhưng nhờ BRI, nước này hiện đã tự hào sở hữu một tuyến đường sắt cao tốc nối thủ đô Viêng Chăn với tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Với tốc độ tối đa 160 km/h, chuyến đường sắt cao tốc tiên tiến này đã giảm thời gian đi đường từ 15 giờ xuống còn dưới 4 giờ, hứa hẹn một làn sóng thương mại và du lịch mới từ Trung Quốc. Indonesia cũng nhờ Trung Quốc giúp xây dựng tuyến đường sắt cao tốc từ Jakarta đến Bandung, cách đó hơn 145 km. Nước này có thể mua tàu từ bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, nhưng họ đã chọn Trung Quốc sau khi Widodo đi thử một hành trình có độ dài tương tự ở Trung Quốc trong khoảng thời gian ngắn hơn thời gian ông uống xong một tách trà. Đơn giản là, Mỹ đã không đưa ra một giải pháp thay thế khả thi cho BRI, vậy nên cũng dễ hiểu khi người ta tiếp nhận sáng kiến của Trung Quốc bất chấp sự phản đối của Mỹ.
(Còn tiếp một phần)
K.M.
Nguồn bản dịch: https://nghiencuuquocte.org/2023/04/16/asean-va-gia-tri-cua-con-duong-thu-ba-p1/