Bàn về danh nghĩa (quyền) chủ quyền của Việt Nam tại đá Ba Đầu và đá Hoài Ân

Trương Nhân Tuấn

Đá Ba Đầu có tên quốc tế là Whitsun, tên Philippine là Julian Felipe. Tên tiếng Hoa là Ngưu Ách (tôi nghĩ chữ “ách” ở đây có nghĩa là cái ách làm bằng gỗ, hình chữ V, dụng cụ để kéo cày gắn lên cổ con trâu. Ta thấy hình dạng của bãi đá Whitsun có hình chữ V, giống như bộ xương hàm con trâu). Đây là một thực thể địa lý "lúc chìm lúc nổi", thuộc nhóm đảo Sinh Tồn, thuộc quần đảo Trường Sa. Bãi đá nằm trong lãnh hải 12 hải lý đảo Sinh Tồn Đông (do Việt Nam giữ chủ quyền).

Trên danh nghĩa pháp lý và lịch sử, đá Ba Đầu thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam.

Nhà cầm quyền bảo hộ Pháp năm 1933 đã ra tuyên bố chủ quyền cùng các việc cắm mốc dựng bia (đánh dấu chủ quyền) ở các cụm đảo Trường Sa, An Bang, Ba Bình (Itu-Aba), Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ cùng các đảo phụ thuộc.

Pháp tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, với danh nghĩa “sáp nhập một lãnh thổ vô chủ”. Trái với số phận các lãnh thổ “hải ngoại thuộc Pháp” như các đảo (vắng người ở) như đảo Kerguélen, đảo St-Paul, đảo Amsterdam v.v., quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, tỉnh Bà Rịa, năm 1933.

Chiếu theo Luật Biển 1982 (UNCLOS) đá Ba Đầu, vì là một thực thể địa lý “lúc chìm lúc nổi”, đá này không được xem như là một “lãnh thổ” để một quốc gia có thể tuyên bố chủ quyền. Cũng theo UNCLOS, đá này thuộc về “thềm lục địa”, có thể được sử dụng như “điểm cơ bản” để tính lãnh hải (12 hai lý) cho một đảo nào đó không quá 12 hải lý.

Đá Ba Đầu vì vậy phụ thuộc đảo Sinh Tồn Đông, do Việt Nam liên tục quản lý và chiếm giữ một cách hòa bình từ trên 80 năm nay.

Trung Quốc từ 1951 tuyên bố có chủ quyền ở tất cả các đảo, đá ở Biển Đông, mở ra từ bờ đảo Hải Nam đến bãi Tăng Mẫu gần Borneo của Malaysia.

Vấn đề là luật quốc tế có qui định, một quốc gia chỉ có thể tuyên bố chủ quyền ở một lãnh thổ “vô chủ”. Năm 1933, lúc nhà nước bảo hộ Pháp sáp nhập Trường Sa vào lãnh thổ Việt Nam theo nguyên tắc “sáp nhập một lãnh thổ vô chủ”, nhà nước Trung Hoa lúc đó đã “im lặng” trược sự việc này. Mặt khác việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cần phải thể hiện song song với việc chiếm hữu trên thực tế.

Tuyên bố 1951 của Chu Ân Lai, trên phương diện công pháp quốc tế, vì vậy không có giá trị.

Từ vài năm nay TQ đã cho tàu bè đội lốt ngư dân thường xuyên neo ở bãi này. Hành vi này thể hiện tính "efffectivité", một thủ thuật pháp lý nhằm khẳng định "chủ quyền" của TQ.

Vấn đề "khó" là TQ không thể chiếm hữu một thực thể lúc chìm lúc nổi. Đây không phải là một "lãnh thổ" để một quốc gia có thể chiếm hữu và tuyên bố chủ quyền.

Ngay cả khi đá Ba Đầu là một “đá” mới được thiên nhiên bồi đắp, nổi thường trực trên mặt nước biển. Đá này cũng không được tập quán quốc tế nhìn nhận là một “lãnh thổ vô chủ”, để một quốc gia có thể tuyên bố chủ quyền.

Tập quán quốc tế, thể hiện qua các vụ Tòa PCA phân xử chủ quyền đảo Palmas (Miangas) giữa Mỹ và Hà Lan 1928 hay vụ Tòa Công lý quốc tế (ICJ) năm 2008 xử tranh chấp Malaysia và Singapore về chủ quyền các đảo ngoài eo biển Malacca.

Palmas là tên chung một "cụm đảo", gồm nhiều đảo nhỏ phụ thuộc vào một đảo lớn. Kết luận Tòa phán rằng quốc gia nào có chủ quyền ở đảo chính thì sẽ có chủ quyền ở các đảo phụ thuộc.

Vụ Tòa Công lý Quốc tế phân xử tranh chấp Singapore và Malaysia về chủ quyền các đảo Pedra Branca 2008. Tòa phán rằng đá (nhỏ) tên South Ledge thuộc về nước nào có chủ quyền đá (lớn nhất cụm) là Middle Rocks.

Tức là, trên bình diện pháp lý, nếu đá Ba Đầu là một “đá nổi thường trực trên mặt biển” thì đá này phụ thuộc vào đảo chính của nhóm Sinh Tồn (tức phụ thuộc vào đảo Sinh Tồn).

Diễn giải cách nào, tập quán quốc tế, lịch sử hay pháp lý. Đá Ba Đầu, nếu là một đá nổi thường trực, đá này thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nếu đá này là một “thực thể địa lý lúc chìm lúc nổi”, đá này thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam (do trực thuộc đảo Sinh Tồn Đông).

Đá Hoài Ân, tức Sandy Cay, tọa lạc giữa đảo Thị Tứ và căn cứ quân sự Subi mà TQ chiếm của VN năm 1988.

Căn cứ Subi trước khi được TQ xây dựng thành đảo nhân tạo (2013-2015) vốn là một thực thể chìm, tức là một đá ngầm (hay bãi san hô ngầm), cách đảo Thị Tứ khoảng 16 hải lý.

Đá Sandy Cay là một thực thể nổi thường trực trên mặt biển. Vì vậy đây là một "lãnh thổ" mà quốc gia có thể yêu sách chủ quyền. Đá này cách Subi khoảng 10 hải lý.

Vấn đề là cụm đảo Thị Tứ vốn thuộc Việt Nam. Chính phủ bảo hộ Pháp đã tuyên bố chủ quyền cụm đảo Thị Tứ (đảo Thị Tứ và các đảo phụ thuộc) năm 1933 và sáp nhập các nhóm đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.

Tuyên bố chủ quyền của Pháp không chỉ ở đảo Thị Tứ mà bao gồm "các đảo phụ thuộc". Do vậy các đá như đá Hoài Ân (Sandy Cay) hay các bãi ngầm Subi đều thuộc chủ quyền (hay quyền chủ quyền) của Việt Nam.

Lợi dụng biến cố TQ xâm lược Hoàng Sa năm 1974, Philippine đổ quân chiếm đảo này của VNCH.

Trên danh nghĩa pháp lý, việc chiếm hữu này không đem lại chủ quyền cho Phillipine ở đảo Thị Tứ. Bởi vì Philippine chiếm một lãnh thổ đã có chủ.

Vấn đề là năm 1958 chính phủ ông Hồ đã ký giấy nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giấy này do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký tên).

T.N.T.

Nguồn: FB Nhân Tuấn Trương

This entry was posted in Biển Đông. Bookmark the permalink.