10 điều nên học từ phương Tây

Nguyễn Văn Tuấn

clip_image002

‘Phương Tây’ ở đây là chỉ những người ở các nước như Tây Âu, Bắc Âu, Anh, Mĩ, Canada, Úc, Tân Tây Lan, v.v. Những điều dưới đây tôi rút ra từ kinh nghiệm thực tế trong giao tiếp với người phương Tây. Còn ‘Mười điều’ thì chỉ là cách nói tượng trưng thôi, vì trong thực tế tôi nghĩ chúng ta có thể học từ họ cả … trăm điều.

Điều thứ nhứt: Sự bao dung

Trái lại với nhiều người nghĩ Tây chúng nó ích kỉ và quỉ quyệt, trong thực tế Tây rất rộng lượng và bao dung. Người Mĩ, người Úc, người Canada có thể chẳng quen biết gì với người Việt chúng ta, nhưng họ lại sẵn sàng bảo trợ và nâng đỡ rất nhiều gia đình gốc Việt trong thời gian sau 1975. Ở cấp độ lớn hơn, các nước phương Tây đã mở rộng cánh cửa đón hàng triệu người tị nạn, không phải chỉ từ Việt Nam mà còn từ nhiều nước Đông Âu và Phi châu nữa, và họ đón với tấm lòng chân thành. Ngay cả những nước mà đất hẹp (như Thuỵ Sĩ và Bắc Âu) và chẳng liên hệ gì nhiều với Việt Nam, nhưng họ lại đón nhận hàng vạn người Việt trong thời tị nạn.

Không chỉ đón nhận ‘người dưng’ vào nước họ định cư, họ còn tạo điều kiện để người dưng được tiến thân trong môi trường mới. Từ nhà ở đến cái áo mặc đều được lo lắng chu đáo. Tôi nghĩ nhiều khi ngay cả người Việt cũng chưa chắc gì cư xử với người Việt như người phương Tây cư xử với người Việt.

Họ còn tích cực giúp đỡ các nước nghèo khó nữa, và Việt Nam là một trong những nước nhận rất nhiều giúp đỡ từ phương Tây. Họ tài trợ không hoàn lại để Việt Nam xây cầu, xây đường xá, họ hỗ trợ về kĩ thuật và công nghệ, họ giúp Việt Nam vào các thiết chế kinh tế thế giới, v.v. Trong trận đại dịch vừa qua, họ cấp Vắc-xin miễn phí cho rất nhiều nước trên thế giới. Trong giáo dục, họ cấp học bổng cho mấy nước nghèo qua nhiều năm liền. Đó không là rộng lượng thì là gì?

Điều thứ 2: Đạo đức xã hội

Hồi còn ở Việt Nam, tôi thường nghe nói rằng ở mấy nước phương Tây người ta sống phóng đãng lắm, họ rất suy đồi, hay nói chung là chẳng có đạo đức gì đâu. Sai. Sai nghiêm trọng. Người phương Tây sống rất đạo đức, có khi còn hơn cả người phương Đông. Họ rất quan trọng đến con người, và lấy con người làm gốc cho mọi quyết sách. Họ cũng rất quan tâm đến chữ ‘lễ’ trong giao tế hàng ngày.

Người phương Tây, cũng giống như chúng ta, rất biết kính trên và nhường dưới. Họ có những qui chuẩn về lễ nghi rất lâu đời. Hãy nhìn các buổi lễ thụ phong huân chương do Nữ Hoàng Anh tiến hành, hay những buổi lễ tốt nghiệp đại học, chúng ta sẽ thấy họ có truyền thống ‘lễ’ rất lâu đời, và đáng nể là họ vẫn duy trì những lễ nghi đó cho đến ngày nay.

Không chỉ quan tâm đến con người, người phương Tây còn hơn chúng ta ở chỗ quan tâm đến thú vật. Cách họ cư xử với gia cầm và thú vật có thể làm cho nhiều người phương Đông kinh ngạc. Đó không phải là hình thức ‘hoa hoè’, mà là tôn trọng với thực chất. Trong thí nghiệm khoa học, nếu làm trên chuột là phải qua sự phê chuẩn của một uỷ ban đạo đức khoa học.

Không chỉ với thú vật, họ cũng rất quan tâm đến môi trường, cây cỏ. Đến những nước như Bắc Âu và Úc, chúng ta sẽ thấy chánh phủ và người dân ở những nước này gìn giữ môi trường ra sao. Không phải gìn giữ môi trường bằng khẩu hiệu; họ đưa vào đời sống những đạo luật và chương trình giáo dục ngay từ tuổi thiếu niên để các em biết trân quí môi trường sống.

Điều thứ 3: Tôn trọng phụ nữ

Một khác biệt lớn lớn nhứt giữa Việt Nam và phương Tây là cách xã hội cư xử với phụ nữ. Ở Việt Nam, người ta quen thói ‘trọng nam khinh nữ’ và thói gia trưởng, nên xã hội đối xử với nữ giới có thể nói là tệ. Trước đây, nữ giới trong các xã hội phương Tây từng bị đối xử rất tệ, nhưng họ đã biết lỗi lầm và chỉnh sửa. Do đó, ngày nay ở xã hội phương Tây, nữ giới được đối xử với sự tôn trọng.

Các chánh phủ phương Tây làm đủ mọi cách để bình đẳng hoá giới tính trong mọi hoạt động xã hội. Từ sự hiện diện của nữ giới trong Quốc hội đến các chức vụ trong đại học và tập đoàn kinh tế, họ có những qui định và chánh sách rất thực tế để bình đẳng hoá giới tính. Họ làm thật chớ không hô hào khẩu hiệu. Nên học họ về vấn đề nâng cao sự hiện diện của nữ giới trong mọi hoạt động.

Tôi cũng làm một phần của mình trong chiến lược này. Labo tôi có nữ và nam bằng nhau. Đó là một chủ trương cá nhân. Có lúc, tôi còn bị phê bình là dành ưu tiên cho nữ nhiều quá, nhưng tôi không hề nhân nhượng. Lí do đơn giản là mình thấy má mình, dì mình, em mình và cháu mình trong đó thì làm sao hối tiếc gì. Nên học Tây về cách cư xử với nữ giới.

Điều thứ 4: Tôn trọng quyền cá nhân

Người Việt chúng ta nhìn chung rất quan tâm đến cá nhân. Gặp nhau lần đầu, người ta hay tìm hiểu người nói chuyện là ai, giữ chức vụ gì, quan điểm chánh trị ra sao, v.v. Họ đánh giá người đối thoại dựa trên những thông tin về cá nhân. Rất tiêu biểu cho câu “trông mặt đặt tên”. Nói chung là người phương Đông thích soi mói đời tư cá nhân.

Người Tây thì khác: họ chẳng quan tâm đến mình là ai, đến từ đâu, quan điểm chánh trị là gì hay theo đảng phái nào. Họ chỉ quan tâm đến ý kiến và hàm lượng tri thức, hay nói theo họ là ‘merit’.

Tôi làm việc chung với một hội đồng trong một hiệp hội khoa học cả 10 năm mà họ không biết tôi là ‘boat people’. Sếp tôi phải 10 năm sau mới biết tôi từng làm phụ bếp ở bệnh viện mà tôi đang làm. Không có giấu diếm gì cả; họ không hỏi thì mình cứ giữ im lặng. Họ không hỏi, có lẽ là tôn trọng sự riêng tư.

Người Tây không đánh giá một cá nhân qua quan điểm chánh trị hay niềm tin tôn giáo; họ đánh giá qua việc làm và chất lượng. Chính tôi trong vai trò người đánh giá, chưa bao giờ tôi tự hỏi họ là ai, đến từ đâu hay xuất thân từ ‘danh gia vọng tộc’ nào. Tôi nghĩ cách làm như vậy rất bình đẳng và khách quan. Chúng ta nên học họ về việc tôn trọng quyền riêng tư và cá nhân.

Điều thứ 5: Sự tử tế và lời nói "Cám ơn"

Sự tử tế của người phương Tây có thể thấy qua chữ ‘Cám ơn’. Có thể nói ‘cảm ơn’ là câu nói đầu môi của người phương Tây. Được giúp đỡ thì nói cảm ơn đã đành, họ giúp người khác mà cũng cảm ơn luôn! Cám ơn ở đây không chỉ là lời nói ghi ơn, mà còn là một appreciation — ghi nhận. Mệnh đề ‘cám ơn’ đã thành một nét văn hoá đẹp của người Tây. Chúng ta nên học họ.

Đã có nhiều nghiên cứu tâm lí học cho thấy nói lời cám ơn là một hành vi tích cực. Hành vi này làm cho người thốt ra câu nói cảm thấy hạnh phúc. Nhiều người nói câu cảm ơn là một cách tạo ra nguồn năng lượng tích cực cho cộng đồng. Thành ra, cảm ơn vừa có lợi ích cho cá nhân, vừa tạo ra một cộng đồng tử tế.

Ngày xưa, khi còn theo học, sếp tôi nhắc nhở chúng tôi khi đi dự hội nghị, phải đến quầy của các công ti dược để nói lời cảm ơn vì họ đã tài trợ cho chuyến đi. Trong báo cáo khoa học cũng phải có một slide cảm ơn mọi người đã giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu. Sau này, tôi cũng nhắc nhở các em nghiên cứu sinh trong lab làm như vậy. Nói ra lời cảm ơn, mình thấy thoải mái làm sao.

Người Việt chúng ta rất ít nói lời cảm ơn. Có khi họ nói ‘cám ơn’ cho có lệ chớ không thực lòng. Việt Nam chúng ta cần học người phương Tây về cảm ơn.

Điều thứ 6: Tôn trọng chánh kiến khác (sống với dị biệt)

Có lần, một anh bạn giáo sư kinh tế, người Úc, rất sùng cánh tả, hỏi tôi về quan điểm chánh trị. Tôi nói rằng chưa bao giờ bầu cho đảng Lao Động và chưa bao giờ thích mấy ứng cử viên của phe Dân Chủ và dứt khoát không thích anh Bảy Đờn và phe Pelosi. Anh ấy nói tôi có xu hướng right wing. Cười hoà.

Đặc điểm quan trọng của xã hội phương Tây là đa sắc tộc, đa nguyên và đa đảng. Ngay từ thời tiểu học, học sinh đã được dạy phải tôn trọng ý kiến khác mình. Học sinh được dạy để biết sanh hoạt đa đảng ra sao. Do đó, trong công việc, họ hoàn toàn không có kì thị đảng phái.

Tôi mới đọc hồi kí của Clive Hamilton, một giáo sư hữu khuynh, mà trong đó tôi học cách ứng xử của giới khoa bảng Úc. Giáo sư Hamilton kể rằng lúc trẻ ông là một tay tả khuynh (left wing), mê xã hội chủ nghĩa. Ông tốt nghiệp tiến sĩ và xin việc tại một khoa kinh tế nổi tiếng hữu khuynh. Ông nghĩ mình sẽ không được phỏng vấn. Nhưng ngạc nhiên thay, ông được phỏng vấn và nhận vào làm việc. Ông cho biết sau này bà khoa trưởng thổ lộ rằng bà muốn có ý kiến ngược lại số đông nên sẵn sàng nhận ông vào làm nghiên cứu. Ông cho biết thời gian ở cái khoa hữu khuynh đó ông học rất nhiều và xem là thời gian đáng nhớ nhứt trong đời.

Điều thứ 7: Dí dỏm

Hồi còn ở Việt Nam tôi say mê chương trình hài của ‘Sạc Lô’ mà sau này tôi mới biết tên thật là Charlie Chaplin. Ông ấy không nói gì nhưng trong thực tế thì nói rất nhiều, rất hay. Khi qua Úc tôi mê chương trình Benny Hill trên tivi. Không phải mê vì mấy cô gái đẹp đóng chung với ổng (Hill), mà là những câu đối thoại vừa ý nhị vừa hài hước ghê nơi. Có những câu nói ra mình chưa biết ý nghĩa là gì, nhưng nghĩ một hồi thì cười ha hả.

Tôi thấy người phương Tây có óc hài hước chẳng kém dân Việt mình. Mark Twain từng nói “The human race has one really effective weapon, and that is laughter” (Con người có một vũ khí rất hiệu quả: đó là tiếng cười). Hài hước là một đức tính rất hay và được xem là một hành vi tích cực. Nó (hài hước) giúp chúng ta đối phó với những khó khăn và phiền toái trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà người Tây rất hài hước.

Người tiêu biểu về tính hài hước là mấy ông sếp cũ của tôi. Một ông sếp cũ của tôi là một giáo sư về thần kinh học là một người hài hước đáo để. Ổng là viện trưởng, nhưng lần nào họp viện ổng đều mở đầu bằng một câu nói hay một câu chuyện làm cho khán phòng cười nghiêng ngả. Cái tánh hài hước của tôi chính là bị ông này ‘lan truyền’.

Điều thứ 8: “Give and take”

Rất khó dịch thành ngữ ‘Give and take’, nhưng nó tương đương với câu ‘Có qua có lại mới toại lòng nhau’ trong cách nói của chúng ta. Người phương Tây rất trọng ‘Give and take’ vì đó là một thể hiện của sự công bằng (fairness). Công bằng là một nguyên lí rất quan trọng trong xã hội phương Tây, và hầu như chánh sách hay chủ trương nào cũng được xây dựng trên nguyên lí này.

Người Việt ngày nay hay có thói “có lợi gì cho tôi”. Bất cứ một đề nghị nào, dù tốt cỡ nào, giới lãnh đạo hay hỏi ‘có lợi gì cho tôi’. Rất hẹp hòi. Chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến người khác. Tôi thấy Tây khác ta: họ lúc nào cũng nghĩ ‘mình đem lợi gì cho người và cho mình’ hay nói theo tiếng Anh là công bằng (cho và nhận). Nên học cách suy nghĩ ‘give and take’ của Tây.

Điều thứ 9: Làm chậm mà chắc

Người Việt chúng ta hay tự hào là làm nhanh. Họ hay so sánh kiểu một công trình Tây làm 2 năm, nhưng Việt Nam làm chỉ 6 tháng. Trong thực tế và đó đây thì đúng là có sự việc như vậy. Hay trong y khoa, có những thuật mà Tây không dám làm, nhưng Việt Nam dám làm; chẳng những dám làm, mà còn quảng bá rùm beng.

Nhưng vấn đề không phải là làm được hay làm nhanh. Tây họ rất cẩn thận và suy nghĩ lâu dài. Làm cái gì họ cũng tham vấn nhiều người từ nhiều chuyên ngành khác nhau. Làm một cái giường cho bệnh nhân, họ không chỉ tham khảo ý kiến của chuyên gia mà còn hỏi ý kiến của bệnh nhân. Làm một con lộ cao tốc, họ phải nghiên cứu tác động môi trường cả 2 năm trời để đánh giá tác hại đến cư dân ra sao. Ngay cả triển khai một nghiên cứu thành hiện thực họ cũng phải xem xét lợi và tác hại có thể cho bệnh nhân.

Người phương Tây làm chậm không phải họ dở, mà là họ quan tâm đến chất lượng và lâu dài. Chúng ta nên học họ về tầm nhìn xa và phẩm chất.

Điều thứ 10: Tinh thần cách tân

Người phương Đông chúng ta trọng tĩnh, nhưng người Tây trọng động. Họ lúc nào cũng nghĩ đến cách tân hay làm mới một ý tưởng cũ. Ở viện tôi công tác, năm nào cũng có ‘retreat’. Và, mỗi retreat, sếp tôi hay hỏi ‘vấn đề lớn hiện nay là gì và chúng ta phải làm gì mới để giải quyết vấn đề.’ Năm nào câu hỏi đó cũng được đặt ra. Riết rồi, chúng tôi buộc phải suy nghĩ đến cái mới. Tinh thần cách tân thật là đáng học.

Trong thời đại cạnh tranh khoa học và công nghệ, tinh thần cách tân rất quan trọng vì nó giúp mình đứng đầu. Các nước mới nổi ở Châu Á họ hay mời chúng tôi sang nói chuyện. Có khi một bài nói chuyện chỉ 30-40 phút, nhưng họ biết được hướng mới là gì. Trả có 10 ngàn đôla mà có ý tưởng mới thì quả là quá rẻ.

***

Tôi có hứng chia sẻ vài ý nghĩ trong cái note này nhân một câu nói của cô phát ngôn viên Bộ Ngoại giao về nước Nga. Cô ấy nói rằng [1]: "Tôi gắn bó với nước Nga vì tiếng Nga là ngôn ngữ tôi học từ bé. Nước Nga của những áng thi ca và các tác phẩm nghệ thuật bất diệt. Tôi đã đọc hầu hết các tác giả Nga và Liên Xô, đi thăm các bảo tàng Tretchiacov và Hermitage nhiều lần. Nhưng nước Anh để lại trong tôi nhiều ấn tượng vô cùng sâu sắc. Đó không chỉ là cái nôi của văn minh châu Âu mà còn là văn hóa đa sắc tộc, hiện đại nhưng cũng rất bản sắc."

Cô ấy nói nước Anh là ‘cái nôi của văn minh châu Âu’? Wow! Thiệt vậy sao? Kiến văn của một phát ngôn viên ngoại giao là vậy?

Bất cứ nền văn hoá và văn minh nào cũng có nhiều điều để chúng ta học hỏi. Người phương Tây có một nền văn minh rất lâu đời (chẳng kém gì văn minh phương Đông), và họ đã có rất nhiều thành tựu vật chất và phi vật chất. Tôi nghĩ người phương Tây cũng muốn học từ văn hoá phương Đông, chứ không phải sự học chỉ diễn ra 1 chiều.

Sống trong xã hội phương Tây chỉ 40 năm thôi, nhưng tôi thấy mình phải học họ nhiều lắm. Mười năm đầu tôi chưa ‘thấm’ đâu, phải 20 năm sau mới bắt đầu biết chút chút. Mười điều tôi nêu trên đây chỉ là những điều hiển nhiên và mang chút cá nhân tánh. Tôi tin rằng các bạn có thể rút ra nhiều nhiều hơn những gì tôi liệt kê. Tôi nghĩ những giá trị như bao dung, sự tử tế, tôn trọng quyền cá nhân, tôn trọng nữ giới, tôn trọng chánh kiến khác, và tinh thần cách tân là những gì chúng ta có thể soi rọi và tự làm mới mình.

N.V.T.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

This entry was posted in văn hoá. Bookmark the permalink.