Tại sao Trung Quốc không sẵn sàng xâm lược
Andrew J. Nathan
Beijing Is Still Playing the Long Game on Taiwan, FOREIGN AFFAIRS 23 June 2022
Bauxite Việt Nam dịch
Hệ thống phòng thủ của Đài Loan gần Vườn quốc gia Kenting ở Pingdong, tháng 7 năm 2007. Wolf Kern / Redux
Đài Loan, Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ ở châu Á ngày càng lo rằng Trung Quốc đang chuẩn bị tấn công Đài Loan trong tương lai gần. Năm ngoái, khi phát biểu trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ, Đô đốc Philip Davidson – lúc đó là Tư lệnh Bộ Chỉ huy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ – đã cảnh báo rằng Bắc Kinh có thể cố gắng chiếm Đài Loan trong sáu năm tới. Thống nhất Đài Loan với Trung Quốc đại lục là yếu tố chính trong “giấc mơ Trung Hoa” của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Và như nhà khoa học chính trị Oriana Skylar Mastro đã lập luận cũng trên những trang báo này rằng ông Tập muốn "việc thống nhất Đài Loan là một phần di sản của cá nhân ông", điều này cho thấy một cuộc xâm lược vũ trang có thể xảy ra trước khi nhiệm kỳ thứ ba của ông với tư cách là tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc kết thúc vào năm 2027 và gần như chắc chắn trước khi kết thúc nhiệm kỳ thứ tư vào năm 2032.
Cuộc chiến của Putin ở Ukraine đã làm gia tăng những lo ngại này. Tuyên bố của ông Tập về quan hệ đối tác “không có giới hạn” với Moscow ngay trước khi Nga tiến hành xâm lược Ukraine, cùng với việc ông không lên án hành động của Putin và việc truyền thông Trung Quốc tán thành các tuyên truyền của Nga, là dấu hiệu cho thấy sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với hành động xâm lược lãnh thổ của Nga. Giờ đây, Bắc Kinh có thể thấy một sơ hở chiến lược khi các nguồn lực chính trị và quân sự của Hoa Kỳ đang phải tập trung ở khu vực châu Âu. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể cho rằng phản ứng của phương Tây đối với cuộc tấn công của Nga là một dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ sẽ không can thiệp quân sự để bảo vệ một quốc gia không có hiệp ước quốc phòng với Hoa Kỳ, đặc biệt là để chống lại một đối thủ có vũ khí hạt nhân. Như David Sacks của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại lập luận: “Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc có thể cho rằng rằng kho vũ khí hạt nhân của Nga đã ngăn chặn một cách Hoa Kỳ hiệu quả, nên Hoa Kỳ cũng sẽ không muốn gây chiến với một cường quốc hạt nhân vì Đài Loan”.
Nhưng những lo ngại về một cuộc tấn công sắp xảy ra của Trung Quốc có vẻ không đúng. Trong nhiều thập kỷ, chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan là sự kiên nhẫn chiến lược, cũng giống như cách tiếp cận của họ đối với các yêu sách và tranh chấp lãnh thổ khác – từ Ấn Độ đến Biển Đông. Cuộc chiến ở Ukraine đã càng củng cố quyết tâm của Bắc Kinh trong việc chơi trò chơi lâu dài với Đài Loan, thay vì thúc đẩy Trung Quốc từ bỏ cách tiếp cận này để chuyển sang chuẩn bị tấn công quân sự vào Đài Loan. Cái giá mà Moscow phải trả, cả về mặt quân sự và sự cô lập quốc tế sẽ chỉ là một phần nhỏ so với những gì Trung Quốc phải chịu nếu họ cố gắng chiếm Đài Loan bằng vũ lực. Do đó, Bắc Kinh thấy tốt hơn nên kiên nhẫn chờ đợi sự đầu hàng cuối cùng của Đài Loan, hơn là mạo hiểm tấn công ngay và giành được hòn đảo này với chi phí quá cao – hoặc mất nó mãi mãi.
CUỘC TẤN CÔNG SẮP XẢY RA?
Nỗi lo sợ Trung Quốc tấn công Đài Loan đã có từ trước khi Putin xâm lược Ukraine. Như Robert Blackwill và Philip Zelikow nhận xét trong một báo cáo do Hội đồng Quan hệ Đối ngoại công bố năm 2021: Đài Loan đang “trở thành điểm tiềm ẩn chiến tranh nguy hiểm nhất trên thế giới, cuộc chiến tranh xảy ra giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc và có thể với các cường quốc khác”. Ngoài các thôi thúc về lịch sử và kinh tế làm cho Bắc Kinh mong muốn kiểm soát Đài Loan, Bắc kinh còn cảm thấy cần phải ngăn chặn các cường quốc khác sử dụng hòn đảo này như một cơ sở để gây áp lực quân sự hoặc lật đổ Trung Quốc về mặt chính trị. Về phần mình, Hoa Kỳ có động cơ mạnh mẽ để nhấn mạnh vào điều mà Washington gọi từ năm 1972 là "giải pháp hòa bình cho vấn đề Đài Loan", cùng với quan điểm chống thống nhất của người dân Đài Loan, điều đó nghĩa một tình trạng để ngỏ và có lẽ là quyền tự trị vĩnh viễn trên thực tế cho hòn đảo. Mặc dù có nhiều cảm xúc cho cả hai bên, đối với Trung Quốc là chủ nghĩa dân tộc, đối với Hoa Kỳ là cam kết về dân chủ, điều khiến cho vấn đề Đài Loan thực sự không thể thương lượng được là lợi ích an ninh của hai nước.
Năm 1979, khi Hoa Kỳ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Bắc Kinh đã hoàn toàn có cơ hội chiến thắng Đài Loan mà không cần sử dụng vũ lực. Đài Loan đã bị cô lập về mặt ngoại giao, yếu kém về quân sự và ngày càng phụ thuộc kinh tế vào đại lục. Trung Quốc khuyến khích sự phụ thuộc này bằng cách thiết lập một loạt các ưu đãi cho các doanh nghiệp Đài Loan kinh doanh trên đất liền, bằng cách mua hàng xuất khẩu của Đài Loan, và bằng cách đưa khách du lịch Trung Quốc đến hòn đảo này. Bắc Kinh cũng đầu tư vào truyền thông Đài Loan với mục đích phủ sóng các tin tức có lợi cho Trung Quốc và tổ chức các cuộc trao đổi với các nhà lãnh đạo của Quốc dân đảng chống độc lập, hay Quốc dân đảng.
Nhưng những nỗ lực này tỏ ra không đủ để ngăn chặn làn sóng phản đối thống nhất trong dư luận và chính trị Đài Loan. Theo các cuộc thăm dò dư luận, tỷ lệ cử tri Đài Loan ủng hộ thống nhất đã giảm từ 28% năm 1999 xuống dưới 2% vào năm 2022. Đa số ủng hộ "duy trì hiện trạng", theo ngôn ngữ của chính trị Đài Loan, có nghĩa là duy trì quyền tự chủ mà không cần tuyên bố chính thức độc lập. Kể từ năm 2016, Đảng Tiến bộ Dân chủ chống thống nhất đã kiểm soát cả chức vụ tổng thống và cơ quan lập pháp, và có vẻ như đảng này có khả năng cũng sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc gia vào năm 2024.
Những xu hướng này đã thúc đẩy Trung Quốc áp dụng một động thái đe dọa hơn đối với Đài Loan. Bắc Kinh đã tăng cường các biện pháp cô lập hòn đảo về mặt ngoại giao, giảm nhập khẩu và thương mại du lịch, huấn luyện quân đội Trung Quốc tiến hành các hoạt động chung phức tạp cần thiết cho một cuộc xâm lược xuyên eo biển và tiến hành các cuộc thăm dò thường xuyên vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan. Trung Quốc cũng đã phát triển cái mà Lầu Năm Góc gọi là khả năng “chống tiếp cận / từ chối khu vực” được thiết kế để bảo vệ Đài Loan của Mỹ – các khả năng này bao gồm tên lửa chính xác tầm xa, ngư lôi phóng từ tàu ngầm, tên lửa đạn đạo chống tàu, vũ khí mạng và khả năng vũ trụ.
Những động thái này đã làm dấy lên suy đoán rằng Trung Quốc đang chuẩn bị một cuộc tấn công toàn diện. Bên cạnh mong muốn của ông Tập về việc để lại một di sản, sự thay đổi cán cân quyền lực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng được các nhà phân tích Hoa Kỳ coi là một động lực có thể có đối với ông Tập. Ví dụ, các học giả Michael Beckley và Hal Brands cho rằng Trung Quốc có thể tấn công trong thời gian tới vì nước này đã đạt đến đỉnh cao sức mạnh quốc gia – và các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết điều đó. Trung Quốc đang đối mặt với giai đoạn suy giảm gây ra bởi sự kết hợp của nợ không bền vững, chi phí lao động tăng, dân số già, năng suất giảm và tình trạng thiếu nước nghiêm trọng. Trong khi đó, Hoa Kỳ và Đài Loan gần đây đã bắt đầu điều chỉnh lại khả năng quân sự của họ để chống lại mối đe dọa phi đối xứng mà Trung Quốc gây ra. Chính quyền Biden đang kéo Nhật Bản và Hàn Quốc xích lại gần nhau với cam kết “ổn định ở eo biển Đài Loan”, các doanh nghiệp phương Tây đang dần chuyển các nhà máy ra khỏi Trung Quốc vì giá nhân công tăng cao, thị trường Trung Quốc thiếu sân chơi bình đẳng và do các hạn chế vì COVID-19. Khi sự tái định hướng này đủ lớn, các quyền lợi kinh tế của phương Tây giúp tránh chiến tranh với Trung Quốc sẽ giảm bớt. Theo logic này, Bắc Kinh có lý do để tấn công trước khi các đối thủ của họ sẵn sàng.
TRÒ CHƠI CHỜ ĐỢI
Những dữ kiện dựa vào đó để đưa ra những dự báo trên không sai, nhưng chúng không đầy đủ. Các dữ kiện đầy đủ hơn cho thấy rằng Trung Quốc vẫn đang theo đuổi chiến lược kiên nhẫn đối với Đài Loan.
Thứ nhất, các nhà lãnh đạo Trung Quốc – dù đúng hay sai – dường như đều tự tin rằng họ có thể xử lý các vấn đề của chính họ tốt hơn cách phương Tây xử lý các vấn đề của bản thân phương Tây. Họ không phủ nhận những thách thức mà Beckley và Brands đã nêu bật, nhưng họ tin rằng phương Tây đang suy tàn, đang gặp khó khăn bởi các nền kinh tế kém quản lý và tăng trưởng chậm, bởi sự chia rẽ xã hội, và các nhà lãnh đạo chính trị yếu kém. Tuy nhiên, các chiến lược gia Trung Quốc dường như không tin rằng Trung Quốc vẫn chưa đạt được cân bằng quyền lực thuận lợi với phương Tây. Như Yan Xuetong, Viện trưởng Viện Quan hệ Quốc tế tại Đại học Thanh Hoa lập luận: “Tầm vươn ra toàn cầu của Trung Quốc vẫn có các giới hạn của nó. Mặc dù là một cường quốc, Trung Quốc cũng tự coi mình là một quốc gia đang phát triển – và đúng như vậy, khi xét rằng GDP bình quân đầu người của họ vẫn kém xa so với các nền kinh tế tiên tiến”.
Bắc Kinh có thể chờ đợi các cường quốc ở Tây Thái Bình Dương có các quyết định có lợi cho Bắc Kinh. Khi Washington hiểu rằng cái giá phải trả cho việc bảo vệ Đài Loan là vượt quá khả năng của họ và các quan chức Đài Loan nhận ra rằng Washington không còn muốn đụng độ với Trung Quốc, thì Đài Loan sẽ đàm phán một cách thực dụng về một thỏa thuận mà Bắc Kinh có thể chấp nhận. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ cần ngăn cản Đài Bắc và Washington thực hiện các nỗ lực khẳng định sự độc lập chính thức của Đài Loan. Do đó, các cuộc phô trương vũ lực của Bắc Kinh không phải là báo trước của một cuộc tấn công sắp xảy ra, mà là các biện pháp nhằm câu giờ để lịch sử diễn ra.
Thứ hai, trái ngược với mô tả thông thường về Trung Quốc là muốn chiến tranh, Bắc Kinh đã thể hiện sự kiên nhẫn chiến lược trong việc theo đuổi các mục tiêu khác của mình. Một ví dụ điển hình là hành vi của Bắc Kinh ở Biển Đông, nơi Trung Quốc đã xây dựng và quân sự hóa bảy đảo cát mà không gây ra chiến tranh với Hoa Kỳ hoặc các bên tranh chấp lãnh thổ. Họ đã làm như vậy bằng cách chỉ xây dựng trên các địa hình mà họ đã kiểm soát, đồng thời luôn tuyên bố rằng họ không làm những gì họ đang làm.
Các bên tranh chấp lãnh thổ là các đối thủ quá yếu để có thể đối đầu với Trung Quốc, trong khi Hoa Kỳ không có lý do để đối đầu vì Hoa Kỳ không có tuyên bố chủ quyền lãnh thổ nơi Trung Quốc đang xây dựng. Bắc Kinh hạn chế quyền tiếp cận nhưng không chiếm giữ vùng đất mà họ tranh chấp với Philippines – đồng minh hiệp ước duy nhất của Hoa Kỳ liên quan đến những tranh chấp này – để tránh lôi kéo Washington vào tranh chấp.
Trung Quốc cũng thay đổi hiện trạng chiến lược mà không gây ra xung đột vũ trang đối với quần đảo Senkaku đang tranh chấp, được Trung Quốc gọi là quần đảo Điếu Ngư, bằng cách leo thang từ sự hiện diện hàng hải không thường xuyên trong vùng biển của Nhật Bản thành sự hiện diện lâu dài, dùng dân quân hàng hải, và tàu cá (lực lượng bảo vệ bờ biển ít đối đầu hơn) để hổ trợ cho lực lượng hải quân của họ. Bắc Kinh đã thực hiện kịch bản tương tự ở khu vực Ladakh đang tranh chấp của Ấn Độ, ở đó, quân đội Trung Quốc dần dần tiến công và thiết lập một loạt tuyến kiểm soát mới với chỉ một vụ nổ súng được xác nhận đã nhanh chóng được kiềm chế.
Trung Quốc đã đầu tư vào các dự án cảng dân sự trên Ấn Độ Dương và xa hơn nữa, có thể đóng vai trò là nền tảng cho các hoạt động hải quân trong tương lai, gây ra một số cảnh báo nhưng không gây xung đột. Bắc Kinh cũng đã sử dụng ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao của mình ở châu Phi, châu Âu, châu Mỹ Latinh, Trung Đông và châu Đại Dương và quyền lực thiết lập chuẩn mực của mình trong các thể chế quốc tế để hỗ trợ các chính phủ phù hợp với lợi ích của Trung Quốc, những điều này một lần nữa gây ra một số báo động nhưng không gây sự phản kháng đáng kể. Những “chiến thuật vùng xám” về ngoại giao, kinh tế và quân sự như vậy cho thấy hành vi chiến lược của Trung Quốc là hướng tới dài hạn hơn là ngắn hạn, chuyển từ không hiện diện sang hiện diện lâu dài trên nhiều đấu trường mà không tạo ra lực cản đáng kể, ít xung đột vũ trang hơn nhiều (ngoại trừ cuộc giao tranh ở Ladakh). Sự thận trọng chiến lược tương tự đó cho đến nay đã thể hiện rõ trong chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan, nơi Bắc Kinh đã xoa dịu căng thẳng và ngăn chặn động lực giành độc lập của Đài Loan mà không dẫn đến khủng hoảng.
Cuối cùng, bài học mà ông Tập có thể rút ra từ cuộc chiến của Putin ở Ukraine không phải là việc xâm lược lãnh thổ sẽ không bị phương Tây trừng phạt về mặt quân sự mà là việc đó sẽ vừa khó khăn vừa tốn kém. Không có lý do gì để tin rằng ông Tập đang bị bao vây – mà dường như Putin đang bị như vậy – bởi những người nịnh bợ luôn nói với ông rằng có thể dễ dàng chiến thắng trong cuộc chiến giành Đài Loan. Tuy nhiên, ngay cả khi ông ta đang bị như vậy, thì cuộc xung đột gay gắt ở Ukraine đang nhắc nhở ông ta rằng chiến tranh là không thể đoán trước và việc cai trị những người dân luôn kháng cự là rất tốn kém. Chiến dịch đổ bộ mà Trung Quốc cần tiến hành để chiếm Đài Loan sẽ khó khăn hơn nhiều so với cuộc xâm lược trên bộ mà Nga thực hiện ở Ukraine. Ông Tập đã cải tổ cơ cấu chỉ huy của quân đội Trung Quốc và tăng cường huấn luyện cho một chiến dịch như vậy, nhưng các lực lượng Trung Quốc vẫn chưa được kiểm tra trong các hoạt động chiến đấu thực tế. Trong khi đó, khả năng Hoa Kỳ can thiệp để bảo vệ Đài Loan đã tăng lên khi tình cảm chống Trung Quốc gia tăng ở Hoa Kỳ và châu Âu, và sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nhấn mạnh vào tháng trước rằng bảo vệ Đài Loan là “cam kết mà chúng tôi đã thực hiện”.
Ngay cả khi Bắc Kinh có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh giành Đài Loan, vẫn chưa rõ ràng rằng liệu họ có thể giành chiến thắng cho những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Đau đớn như sự cô lập của Nga với các nền kinh tế phương Tây, kịch bản sau chiến tranh đối với nền kinh tế Trung Quốc sẽ còn gây tổn hại nhiều hơn. Trung Quốc nhập khẩu 70% dầu và 31% khí đốt tự nhiên – Trung Quốc là nhà sản xuất than lớn nhất thế giới nhưng vẫn cần nhập khẩu nhiều hơn nữa. Mặc dù đang nỗ lực để tự túc lương thực, nhưng Trung Quốc là nhà nhập khẩu thực phẩm lớn nhất thế giới, đặc biệt là ngô, thịt, hải sản và đậu nành. Một số nguồn nhập khẩu năng lượng và thực phẩm đến từ Nga, nhưng nhiều nguồn nhập khẩu đến từ các quốc gia sẽ trừng phạt Trung Quốc nếu nước này xâm lược Đài Loan. Và ngay cả khi họ không làm như vậy, hải quân Trung Quốc không có phạm vi tiếp cận toàn cầu để bảo vệ các tuyến đường vận chuyển mà thực phẩm và nhiều mặt hàng quan trọng khác lưu thông qua đó. Bất kỳ cuộc chiến tranh nào nhằm vào Đài Loan, ngay cả một cuộc chiến thành công đối với Bắc Kinh, sẽ giáng một đòn mạnh vào nền kinh tế Trung Quốc, tạo ra những điều kiện đe dọa sự ổn định chính trị trong nước và dẫn đến sự thất bại, chứ không phải hiện thực hóa giấc mơ Trung Quốc.
KIÊN NHẪN CHIẾN ĐẤU VỚI KIÊN NHẪN
Những điều phân tích trên không làm cho người Mỹ hay người Đài Loan yên tâm. Trung Quốc đang làm theo câu châm ngôn của chiến lược gia cổ đại Sun-tzu: "Khuất phục kẻ thù mà không cần chiến đấu mới là kỹ năng cao nhất". Nếu cuối cùng Bắc Kinh thành công trong việc chiếm Đài Loan, thì uy tín của Washington đối với các đồng minh châu Á, và thậm chí là với cả các đồng minh châu Âu sẽ bị suy giảm nghiêm trọng, thách thức Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia khác hoặc là đi đến các thỏa thuận với Trung Quốc hoặc chuẩn bị tự vệ mà không có sự trợ giúp của Mỹ.
Cách duy nhất để đánh bại chiến lược kiên nhẫn Đài Loan của Trung Quốc là thực hiện sự kiên nhẫn tương ứng, liên tục điều chỉnh khả năng răn đe của Mỹ và Đài Loan khi vũ khí và hoạt động huấn luyện của Trung Quốc là một mối đe dọa luôn thay đổi và ngày càng gia tăng. Đây là một nhiệm vụ nặng nề đối với Hoa Kỳ ở thời điểm tỷ trọng GDP toàn cầu của nước này đã giảm xuống dưới 25% (từ 40% vào năm 1960) và Hải quân Hoa Kỳ phàn nàn rằng họ không có đủ tàu để thực hiện tất cả các nhiệm vụ mà họ được giao. Đó là một nhiệm vụ còn nặng nề hơn nhiều đối với một hòn đảo chỉ dành 2,1% GDP cho quốc phòng và gần đây mới bắt đầu từ bỏ niềm tin phi thực tế có thể ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc dựa vào các thiết bị quân sự tiên tiến đắt tiền để hướng tới “chiến lược con nhím" thực tế hơn bao gồm mìn, tên lửa tầm ngắn, phòng thủ dân sự và kháng chiến du kích. Nhưng nếu tình trạng bế tắc kéo dài ở eo biển Đài Loan là triển vọng có thể xảy ra nhất trong tương lai, thì bên nào có thể chơi trò chơi này lâu nhất đó là bên chiến thắng.
A.J.N.
—
ANDREW J. NATHAN là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Columbia.