Đặng Bích Phượng
Rút kinh nghiệm từ những chuyện trước đây, bị “kẻ xấu cản phá” như buổi nói chuyện về biển đảo của bác Nguyễn Nhã, buổi liên hoan mừng ngày 8/3, buổi đặt hoa tưởng nhớ những đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh trong chiến tranh biên giới năm 1979, mấy anh chị em chúng tôi lẳng lặng làm một chuyến ra biển thả hoa đăng, tưởng nhớ 64 liệt sĩ hy sinh năm 1988 tại các đảo thuộc Trường Sa.
Đến việc tâm linh cũng không dám công khai rủ nhau trên mạng, sợ hỏng việc. Lựa chán rồi mấy anh chị em mới chọn Hải Phòng làm nơi thả hoa đăng, kết hợp thăm các gia đình liệt sĩ. Có người biết việc làm của chúng tôi, nhưng bận không đi được đều đóng góp ít nhiều. Mỗi người một việc, rốt cục chúng tôi cũng lên đường “Hải Phòng tiến” vào chiều 13/3.
Để tránh sự chú ý của những kẻ phá bĩnh, mọi người muốn khi nào làm lễ tưởng niệm mới mặc áo phông, nhưng tôi cứ diện chiếc áo có in những dòng chữ, ghi dấu các địa danh và sự kiện ngày 14/3 ngay từ đầu. Khi xe đã lăn bánh, mọi người mới tạm thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy hệt như mình đang đi ra trận vậy.
Mặc dù đã chuẩn bị chu đáo thế, dọc đường xe vẫn phải dừng lại, để mấy vị đàn bà rẽ vào chợ mua thêm ít đồ. Trong khi tôi cũng lượn lờ vào chợ, ngắm nghía hàng quán thì bỗng một chị trong đoàn bảo:
– Này! Dân ở đây họ biết cả đấy. Chị nghe thấy họ xôn xao bảo nhau: Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam đấy. Thế là chị hỏi: Sao các bác biết? Họ chỉ, cái áo chị kia mặc in những chữ Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam đấy còn gì?
Tất cả chúng tôi cùng a lên thích thú, cảm thấy hân hoan và ấm lòng. Vậy là người dân họ đã biết và không thờ ơ, dù chỉ với những dòng chữ trên một chếc áo phông bình thường của khách qua đường.
Một cô còn lo lắng hỏi:
– “Nó” sắp lấy hết đảo của mình chưa ạ?
Bà bên cạnh gắt:
– Lấy là lấy thế nào?
Hay! “Nó” lấy được hay không là do dân ta cả thôi. Chả cần tuyên truyền gì. Dân ta muôn năm.
Xe lại tiếp tục bon bon. Mọi việc khởi đầu có vẻ tốt đẹp. Đêm qua trời chợt đổ mưa khiến ai nấy đều lo lắng. Sớm nay vẫn còn lất phất mưa bay. Vậy mà trời gần trưa bỗng hửng nắng, hoàn toàn khô ráo và mát mẻ.
Đến Hải Phòng là hơn 5 giờ chiều. Đã có đại diện hai gia đình liệt sĩ nhập vào đoàn. Tất cả chúng tôi vào nghỉ ở khách sạn Xây dựng. Để tiết kiệm tối đa, đám đàn bà còn mang theo lỉnh kỉnh đồ ăn, xuống nhà hàng chỉ gọi cơm canh và thêm chút thức ăn. Vậy mà khách sạn chẳng khó chịu gì, vẫn vui vẻ phục vụ. Sau đó, chúng tôi mượn khách sạn một hội trường nhỏ, treo băng rôn đàng hoàng để làm lễ tưởng niệm, tặng quà cho gia đình liệt sĩ. Cảm động nhất là giây phút Nguyễn Xuân Diện đọc bài văn tế. Giọng Xuân Diện có lúc nghẹn ngào, run rẩy, những cặp mắt bỗng đỏ hoe, đây đó tiếng sụt sịt của đám phụ nữ…
Trời về khuya trở nên ẩm ướt vì sương đêm. Chúng tôi đi ra bến Nghiêng, nơi xuất phát của “Đoàn tàu không số” năm xưa để thả hoa đăng. Khi xe chở vòng hoa tới, ai nấy đều trầm trồ vì nó quá to và đẹp. Vì đa phần các anh đều hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, nên vòng hoa kết toàn màu trắng tinh khôi.
Ban đầu chúng tôi chỉ định đốt nến rồi thả hoa và hoa đăng ngay trên bờ biển, nhưng rồi lại đổi ý, thuê tàu ra xa bờ để thả. Trong khi còn “cò kè mặc cả”, một người mà chúng tôi tưởng là nhà tàu hóa ra là an ninh thuộc đồn biên phòng Đồ Sơn. Điều khiến chúng tôi ngạc nhiên là họ không hề có ý ngăn cản việc làm của chúng tôi mà còn rất nhiệt tình giúp đỡ. Trong số tiền thuê tàu từ 1 triệu rưỡi xuống còn 1 triệu, thì nhân viên an ninh nói sẽ trả cho nhà tàu 500 ngàn, còn chúng tôi chỉ phải trả 500 ngàn. Cậu an ninh còn nói, thủ trưởng của cháu giao cho cháu thu xếp chỗ nghỉ cho đoàn, nếu các cô chú chưa kịp đặt khách sạn. Từ ngạc nhiên đi đến cảm động. Từ nghi kỵ đi đến thân tình. Ban đầu khi cậu này lẵng nhẵng bám theo đoàn, chúng tôi còn tưởng an ninh nên cứ đuổi quầy quậy. Hóa ra là an ninh thật, nhưng là an ninh quân đội, và là an ninh tốt!
Sương mù mỗi lúc một dày đặc. Chúng tôi đi trên tấm ván hẹp dẫn lên tàu (hoặc là ca nô). Riêng chiếc vòng hoa to quá, chúng tôi không biết làm thế nào để đem lên theo. Đang loay hoay thì cậu an ninh đồn biên phòng Đồ Sơn bảo: Để cháu! Và cậu ta đội chiếc vòng hoa lên đầu, băng băng chạy trên tấm ván hẹp. Vòng hoa được đặt trên sàn tầng 2. Trong khi chúng tôi đốt nến, đặt hoa đăng lên xung quanh vòng hoa, cậu an ninh bảo: Hương đâu? Sao không có hương?
Ừ nhỉ. Chẳng ai nghĩ ra. Làm gì có ai có kinh nghiệm trong chuyện này. Cậu an ninh lại bảo: Để cháu! Câu ta phóng lên bờ. Lát sau quay trở lại với đầy đủ tiền vàng, hương và … thuốc lá.
Sáu mươi tư liệt sĩ. Sáu mươi tư ngọn nến và hoa đăng đặt quanh vòng hoa đại, làm thành một vòng tròn bất tử. Nguyễn Xuân Diện quỳ xuống sàn tàu, đọc lại bài văn tế. Mọi người quỳ quanh vòng hoa, chắp tay trước ngực. Sương đêm ướt đẫm, mịt mù. Nhà tàu phải đưa đèn pin để một người soi cho Diện đọc. Con tàu tròng trành đi vào trong làn sương dày đặc, mang theo khói hương nghi ngút và những ngọn nến lung linh trong đêm, mang theo tiếng rì rầm cầu nguyện Nam mô a di đà Phật. Trong đoàn chúng tôi có hai người theo đạo Công giáo. Họ cũng quỳ xuống đọc kinh, tưởng nhớ các liệt sĩ theo nghi thức bên Công giáo.
Có lẽ không mấy ai có dịp chứng kiến những giây phút như thế này trong đời. Ai nấy đều rưng rưng trong lòng, như cảm nhận được anh linh các liệt sĩ đã phù hộ độ trì cho chúng tôi được an lành đến với các anh.
Cậu an ninh nói: Thuốc lá cháy như thế này là các anh ấy về đấy.
Chúng tôi nghẹn ngào: Đúng rồi, các anh ấy về đấy. Nếu không làm sao chúng tôi gặp được nhiều may mắn đến thế này.
Gió rất mạnh, nhiều lần thổi tắt nến, nhưng hương và thuốc lá vẫn cháy nghi ngút.
Chúng tôi thắp cho các anh hai tuần thuốc lá xong, mới thả vòng hoa xuống biển.
Con tàu quay mũi, đưa chúng tôi vào bờ. Khi chúng tôi trả đủ môt triệu chứ không bớt như lúc đầu mặc cả, cậu an ninh nhất định không chịu lấy, bảo không nói hai lời.
Về khách sạn, chúng tôi ngồi lựa ảnh, post lên mạng. Tôi định viết bài, kể lể ngay, nhưng nhiều khi cảm xúc tràn ngập quá cũng không viết nổi. Khi tôi đóng máy tính lại là đã gần 3 giờ sáng ngày 14/3. Cứ để nguyên quần áo đi đường, đăt lưng xuống là tôi chìm ngay vào giấc ngủ.
Ngày 14/3, chúng tôi chọn đường về Hà Nội qua ngả Thái Bình, để thăm thêm 3 gia đình liệt sĩ nữa. Mỗi một lần chủ khách chia tay là một lần bịn rịn, lưu luyến dù là lần đầu gặp mặt. Hai mươi lăm năm qua, hẳn chẳng có mấy khách phương xa nào quan tâm đến sự hy sinh của chồng, cha, con em họ. Hai mươi lăm năm qua, bao nhiêu người trong gần 90 triệu người Việt Nam biết đến video clip, do quân Trung Quốc quay cảnh bắn bộ đội ta ở Gạc Ma vào ngày 14/3/1988?
Ngay cả những người trong gia đình anh hùng liệt sĩ Trần Đức Thông ở Thái Bình, là những người có ít nhiều chức vị trong xã hội, cũng chưa một lần biết đến clip do lính Trung Quốc quay và đưa lên mạng, khoe khoang về hành động man rợ của chúng. Họ không thể hình dung ra người thân của họ đã ngã xuống như thế. Nhưng lệnh không đươc nổ súng, ngay cả khi quân thù nã đạn vào con em họ thì nhiều người biết. Đau đến nghẹn cả thở.
Xót thay!
Nam nhi hề, vai khoác chiến y,
Chiến sĩ hề, ai về đầu bạc?
Chuyện nhục vinh thì cứ luận bàn,
Đường sinh tử có ai không thác?
Luận anh hùng ai kể bại thành,
Xét chí khí nên coi cao thấp.
Hôm nay,
Thắp nén tâm hương,
Tưởng người tiết liệt.
Gương hiếu trung mãi mãi chẳng phai mờ,
Máu hào kiệt ngàn đời không đổi sắc.
Hiếu với dân chẳng quản máu xương rơi,
Trung với nước đâu chờ bia đá tạc!
Ô hô! Có linh xin hưởng!
(http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=15442)
Kể thêm chuyện bên lề:
– Khi in băng rôn, chủ hiệu đã giảm giá từ 150 ngàn xuống còn 50 ngàn, khuyến mại thêm lời dặn: lần sau những gì liên quan đến phản đối Trung Quốc thì cứ đem đến đây.
– Khi làm thủ tục trả phòng ở khách sạn Xây dựng, do anh em trong đoàn “cẩu thả”, đem dép từ phòng này sang phòng khác, làm nhân viên dọn phòng tưởng mất. Trong khi mọi người còn đang truy tìm, ông giám đốc khách sạn biết chuyện bèn “quát” nhân viên không được hỏi, để yên cho “đoàn” đi.
– Sau khi đoàn về Hà Nội rồi, cậu an ninh ở bến Nghiêng – Đồ Sơn (thuộc đồn biên phòng Đồ Sơn) gọi điện cho một người trong đoàn, thú nhận rằng cảm thấy rất xấu hổ về bản thân khi chứng kiến lễ tưởng niệm này. Cậu nói mặc dù cũng là lính hải quân, có biết về Gạc Ma, nhưng lại chưa hề biết về sự hy sinh của lớp “đồng đội” năm xưa như thế nào. Cậu đề nghị lần sau nếu có những hoạt động như thế, thì cho cậu tham gia với.
– Ở đâu người ta cũng hỏi chúng tôi thuộc tổ chức nào, đoàn thể nào. Xem ra vẫn còn thói quen của mấy chục năm, về một cuộc sống mà cái gì cũng chịu sự quản lý và lãnh đạo của đảng và nhà nước, nên ngay cả việc chia sẻ tình cảm cũng phải chờ chỉ đạo, theo kiểu khi nào nhà nước hô: Khóc! Thế là nhất loạt mới được òa lên khóc, chứ không được khóc tùy tiện.
Đ.B.P.
Nguồn: FB Đặng Bích Phượng