Thiền sư Thích Nhất Hạnh và ba lần nhẫn nại trở về

24/01/2022

Nguyễn Hùng

Thiền sư Thích Nhất Hạnh thắp hương tại Tổ đình Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế ngày 4/9/2017 (Ảnh: Báo Giác Ngộ)Thiền sư Thích Nhất Hạnh thắp hương tại Tổ đình Từ Hiếu – Thừa Thiên Huế ngày 4/9/2017 (Ảnh: Báo Giác Ngộ)

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người thầy mang dòng máu Việt có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới. Cả trường phái phật giáo dấn thân lẫn phương thức thực hành chánh niệm của Thầy đều được sự chú ý và noi theo của triệu triệu người.

Tuy nhiên ảnh hưởng của Thầy ở Việt Nam đã không được như chính Thầy mong muốn vì sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều của giới lãnh đạo cộng sản. Sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều này có thể thấy qua ba lần Thầy nhẫn nại về Việt Nam, nơi giới lãnh đạo có những giá trị đi ngược lại quan điểm sống của người Thầy được thế giới ngưỡng mộ.

‘Chuyến đi khó khăn’

Lần trở về thứ nhất là năm 2005, gần 40 năm sau khi Thầy bị buộc phải sống lưu vong vì chính quyền ở miền nam thời trước 1975 không hài lòng với thái độ phản chiến của vị Thiền sư và ngăn cản ông về nước hồi năm 1966.

“Chuyến đi này là một chuyến đi khó khăn vì không khí nghi ngờ, sợ hãi vẫn còn nặng nề trong bối cảnh chính trị, nhất là trong những ngày đầu ở Hà Nội. Ví dụ trong buổi giảng tại Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, người ta đã hứa là 300 người sẽ nhận được giấy mời nghe Sư Ông giảng, nhưng tới ngày chót chỉ có 40 lá thư được gửi ra và cuối cùng chỉ có 18 vị trong số 40 người có thư được vào nghe Sư Ông. Những người còn lại bị công an giữ cửa từ chối không cho vào vì tên họ đã bị gạch bỏ trên danh sách.” Đó là những gì được ghi chính thức trong Lá thư Làng Mai hồi năm 2006, ấn phẩm ra mắt mỗi năm một lần.

Nhưng Lá thư Làng Mai nói sự sợ hãi sau đó cũng bớt đi nhiều và khi Thiền sư tới giảng ở Học viện Hành chính Quốc gia ở thành phố Hồ Chí Minh, các quan chức đã cho phép tới 1.000 người tham dự nhờ vào “sự thực tập kiên nhẫn, vững chãi, thảnh thơi, ái ngữ và lắng nghe” của Thầy Thích Nhất Hạnh. Làng Mai nói cuối cùng có cả thảy hơn 200.000 người đã có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với vị Thiền sư và tăng thân tháp tùng cho dù “báo chí được lệnh không đăng tải chương trình và sinh hoạt của chuyến viếng thăm” hồi năm 2005.

Đó cũng là năm Thầy đưa ra bảy đề nghị với Đảng Cộng sản trong đó có việc “giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản”.

Cũng trong chuyến đi, Thầy nói với tạp chí Time: “Để có thể có tự do, điều cần thiết là phải giúp người ta buông bỏ những sợ hãi, ngộ nhận và kỳ thị của họ”.

‘Chuyến đi lịch sử’

Lần trở về thứ hai hồi năm 2007 trong “chuyến đi lịch sử”, Thiền sư đã đứng ra tổ chức ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam để cầu siêu cho hàng triệu người Việt đã tử nạn trong cuộc chiến.

Làng Mai nói Thầy đã có lời mời các vị lãnh đạo cao cấp tới tham dự nhưng cuối cùng không có ai tới và viết trong Lá thư Làng Mai trong năm 2008:

“Phân tích cho kỹ ta sẽ thấy có nhiều nguyên nhân [các lãnh đạo không tới], trong đó yếu tố nghi ngại là quan trọng hơn cả. Dấu hiệu đầu tiên là nhà nước, trong đó hẳn có Trung ương Đảng và Ban Tư tưởng đã không muốn Làng Mai sử dụng từ giải oan. Đoàn tiền trạm của Làng Mai dù có giải thích bao nhiêu đi nữa, nói rằng các trai đàn chẩn tế của truyền thống Phật giáo, từ xưa đến nay đều có sử dụng từ giải oan, nhưng rốt cuộc các thầy trong Giáo hội cũng như trong Phái đoàn chỉ được chính thức sử dụng từ bình đẳng mà thôi.

“Theo tư tưởng lãnh đạo, đây là một cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, những người chiến sĩ hy sinh là tại họ muốn hy sinh, những người bên kia chống lại tại vì họ muốn chống lại, hai bên đã chết vì muốn đi theo đường lối và chí hướng của mình, như vậy không có oan ức gì cả. Trong tư duy người ta có thể suy luận như thế, nhưng trong thực tế, nỗi oan ức mà dân ta đã phải chịu đựng trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng có tầm vóc lớn lao tới mức không lời nói nào có thể diễn tả nổi. Nước Đức cũng đã bị chia đôi, Tây Đức lại có căn cứ quân sự Hoa Kỳ, nhưng rốt cuộc, hai nước Đức đã được thống nhất, các căn cứ hỏa tiễn liên lục địa của Hoa Kỳ ở Tây Đức được giải tỏa mà dân Đức không phải đi ngang qua một cuộc chiến với hàng sáu triệu người thiệt mạng với bao nhiêu đổ nát và tang tóc như ở nước ta”.

Mặc dù có nhiều khó khăn, cả ba sự kiện ở ba miền cuối cùng đều được phép diễn ra dù không được hoàn toàn theo ý của Thiền sư.

Làng Mai nhận định: “Qua các đại trai đàn chẩn tế ba miền này, ta thấy được tiềm lực lớn lao của nền đạo lý dân tộc, tiềm lực có khả năng chế tác niềm tin và tình huynh đệ, có khả năng khai phá một con đường tâm linh cho đất nước, ngăn chặn những tệ nạn xã hội, làm vững mạnh lại cơ cấu gia đình và cộng đồng, gây cảm hứng cho một niềm tin vào tương lai đất nước và dân tộc”.

‘Nghi ngờ và sợ hãi’

Về những điều trái khoáy diễn ra, Lá Thư Làng Mai 2008 viết: “Tuy nhà nước đã cho phép, nhưng sự nghi ngờ và sợ hãi vẫn còn, đó là một trong những lý do khiến các vị lãnh đạo không tới dự lễ dâng hương bạch Phật. Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành Công an Tôn giáo đã “bảo hộ” phái đoàn trong tinh thần ấy, vì vậy cho nên trước ngày khai mạc Đại Trai đàn Chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm, ông Bùi Hữu Dược, Vụ trưởng vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ đã nói với thầy Pháp Ấn là trong trai đàn, các thầy không được nhắc tới người thuyền nhân bị thiệt mạng trên biển cả, các nạn nhân chiến tranh của miền Nam, trong đó có các binh sĩ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, không được nói tới các hố chôn tập thể, không được nói tới tù đày, học tập cải tạo, v.v. Lý do ông nêu ra là để ổn định an ninh vùng. Sau hơn hai tiếng thuyết phục, ông Vụ trưởng không giữ được sự bình tĩnh và đã sử dụng những ngôn từ gay gắt”.

Trong chuyến trở về hồi năm 2007, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã có thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị nhà nước dựng Tượng Đài Thuyền Nhân tại bờ biển Vũng Tàu để tưởng niệm đồng bào đã chết trong lúc vượt biển. Đương nhiên đề nghị này làm sao có thể được chấp nhận khi mà chính quyền Việt Nam còn tìm cách xoá bỏ cả các tượng đài thuyền nhân ở những đảo tại các nước khác mà thuyền nhân từng lánh nạn trong đó có Indonesia.

‘Hai tiếng Việt Nam là đẹp nhất rồi’

Khi Thiền sư trở về hồi năm 2007, Việt Nam đã thực hiện chính sách mà họ tự gọi là Đổi Mới được trên 20 năm. Nhưng những gì Thầy và phái đoàn chứng kiến cho thấy sự đổi mãi mà không mới.

Lá thư Làng Mai 2008 viết: “Phải công nhận là giới công an và Ban tôn giáo chính phủ đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để bảo đảm an ninh cho phái đoàn, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Đi đâu, làm gì, phái đoàn cũng phải cho công an biết trước; nếu công an xét không có an ninh thì không được đi, không được làm. Cũng vì vậy cho nên trong suốt thời gian thăm viếng, phái đoàn có cảm giác không được thoải mái lắm. Ở các nước châu Âu, châu Mỹ, và ở tại các nước châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Đại Hàn, Hồng Kông, v.v. khi tới hoằng pháp, phái đoàn Làng Mai không cần ai bảo hộ, không cần giấy mời hoặc sự bảo hộ của bất cứ một giáo hội nào hay của một ban tôn giáo nào. Tới đâu cũng có cảm giác tự do, an ninh và thoải mái”.

Lá thư cũng viết thêm: “Tại đất nước ta, cách tư duy trong đảng và trong chánh quyền, đường lối kinh tế của đất nước bây giờ đây đâu còn lấy chủ nghĩa Mác Xít làm khuôn vàng thước ngọc nữa. Đảng Cộng sản Việt Nam, có người đã nói, cũng nên đổi tên đi thôi, một cái tên mới như Đảng Xã hội, Đảng Đổi mới, Đảng Dân chủ, Đảng Cộng hòa, Đảng Tự do, Đảng Dân tộc… tên gì cũng được, miễn không phải là cái tên cũ. Cái tên Đảng hiện giờ đang là một chướng ngại, gây hiểu lầm và tiếp tục nuôi dưỡng oán hận.

“Trong Đảng và trong guồng máy chính quyền chắc chắn đã có những vị suy nghĩ như thế mà chưa nói ra được. Có những vị trong Đảng cũng đã nghĩ tới việc thay quốc hiệu. Thay vì sử dụng quốc hiệu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, một cái tên quá dài, ta có thể đổi lại là Cộng Hòa Việt Nam hay tốt nhất là Việt Nam. Hai tiếng Việt Nam là đẹp lắm rồi, đẹp nhất rồi, không cần thêm vào chữ nào nữa cả”.

Bất nhã hậu Bát Nhã

Sự thẳng thắn và cương trực của Thầy Thích Nhất Hạnh đã khiến chính quyền nổi đoá.

Kể từ chuyến trở về đầu tiên của Thầy hồi năm 2005, hàng trăm học trò theo Pháp môn Làng Mai đã theo về và tu tập ở tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Nhưng sau hàng loạt các kiến nghị của Thiền sư về chuyện phải có những thay đổi trong đó có việc giải tán ngành kiểm soát tôn giáo và đặc biệt là công an tôn giáo, chính quyền đã không còn ủng hộ việc cho phép đông đảo những tu sinh của Làng Mai ở lại Bát Nhã. Kết quả là tu viện đã bị côn đồ được công an mặc thường phục chỉ đạo vào phá phách và đuổi những học trò theo Làng Mai khỏi đây.

Ngay cả khi họ đã rời khỏi tu viện Bát Nhã tới nương nhờ ở chùa Phước Huệ, cũng ở Lâm Đồng, chính quyền vẫn tiếp tục cho người truy đuổi như lời kể của Sư cô Tâm Nhật trong Lá thư Làng Mai năm 2010 về những gì xảy ra hồi tháng 12/2009:

“Sự yên ắng của không gian Phước Huệ và những bước chân thiền hành bị khuấy động bởi nhóm người lạ mặt đeo khẩu trang. Thế rồi buổi gặp gỡ của Phái đoàn các nước bạn với Ôn Trụ Trì và anh chị em chúng tôi không thành giữa tiếng la hét, chửi rủa và buộc tội của đám đông. Người ta nhục mạ và làm tổn thương nhân phẩm của Ôn Trụ Trì và của anh chị em chúng tôi.

“Tôi rúng động bàng hoàng trước cảnh một người tự xưng là Phật tử dang tay sỉ vả thằng thừng vào mặt một vị tôn đức. Xung quanh tôi là cảnh hỗn loạn ồn ào. Anh chị em tôi vẫn ngồi yên, mỗi người đều duy trì niệm từ bi và bình lặng. Sự hỗn loạn càng tăng lên khi phái đoàn thăm viếng phải ra về. Ôn trụ trì lập tức bị cô lập trong phòng làm việc mấy mét vuông của mình, bao quanh là tiếng la hét chửi rủa nhục mạ của hơn trăm con người. Sau gần một tiếng đồng hồ, Ôn Trụ Trì mới thoát được vào phòng riêng và bên ngoài vẫn còn tiếng đập cửa la hét”.

Liên quan tới các diễn biến bạo lực sau đó, Sư cô Tâm Nhật kể tiếp: “Đầu của sư em Hoạt Nghiêm sưng vù một cục to tướng khi lãnh lấy một cú thoi từ một bàn tay thô bạo nào đó rồi bị đẩy từ trong phòng ra và va đầu thêm vào cột nhà. Sư em chỉ mới 17 tuổi. Thầy Phong Thuấn bị xô ra ngoài và bị xé cho rách áo. Thầy Thánh Hiệp, sư em Pháp Doanh, sư em Pháp Chuẩn cũng bị ném ra ngoài kèm theo lời đe dọa gầm gừ của chú công an mặt thường phục. Tôi nhận ra chú công an đó, người có mặt từ đầu những ngày Bát Nhã nguy nan, đứng bình thản quay phim cảnh anh chị em tôi bị đánh đập, rượt đuổi. Tiếng la thất thanh của sư em Đáo Nghiêm khi bị một người đàn ông xô đẩy và đụng vào, rồi sư em cũng bị hất văng ra khỏi phòng…”.

“Ngay trên đầu chúng tôi là tiếng gào rú của hai, ba cái loa phóng thanh cỡ lớn, dọa dẫm khuyến cáo chúng tôi phải rời khỏi chùa Phước Huệ. Có sư em ngồi vòng ngoài, nhắm mắt niệm Bồ tát mà mặt hứng đầy nước bọt văng ra khi những người hung dữ kia ghé sát xuống mà chửi rủa. Sư em Trung Ngọc cũng ngồi vòng ngoài, cảm thấy tai mình ù đi khi một người đàn bà đã ghé chiếc loa phóng thanh vào tai em mà chửi: “… Mày đi tu gì mà ngu và lì quá vậy, cút về địa phương mà ở đi, tới đây tính chiếm chùa hả?”.

‘Đám mây không bao giờ chết’

Sau những gì xảy ra ở Bát Nhã, Làng Mai đành từ bỏ ý định mở rộng hoạt động và ảnh hưởng ở Việt Nam và quay sang củng cố và mở thêm các trung tâm ở bên ngoài trong đó có cả tại Thái Lan.

Khi trở về Việt Nam hồi năm 2018 để dành những năm tháng cuối cùng tại chùa Từ Hiếu, nơi Thầy xuất gia khi 16 tuổi, Thiền sư đã không còn có thể nói được sau lần đột quỵ hồi năm 2014. Có lẽ Thầy cũng không còn muốn đề đạt gì với chính quyền cộng sản sau khi họ bỏ ngoài tai tất cả những đề đạt trước đó của Thầy.

Sự trở về cuối cùng của Thiền sư thực tế đã được chính ông giải thích ngay trong lần đầu trở lại quê hương sau gần 40 năm xa cách hồi năm 2005:

“Trở về ở đây là trở về nhà, về căn nhà của hải đảo tự thân, về căn nhà của tự tánh chân thật. Trở về ở đây có nghĩa là về nhà của tổ tiên, của đạo pháp, của tăng thân. Quê nhà là nơi có tình thương, hiểu biết, bình an và ấm cúng”.

Cũng trong cùng chuyến đi đó Thầy đã hỏi cử toạ ở Quy Nhơn ‘sau khi chết mình sẽ đi về đâu’ và trả lời: “Điều này giống như đám mây trên bầu trời. Sức nóng của mặt trời đã biến nước của sông ngòi thành hơi, hơi này sau đó tụ lại thành mây. Rồi trở về với đất, với sông dưới dạng: mưa, tuyết hoặc băng giá. Đám mây không bao giờ chết. Nó chỉ đổi dạng thành: mưa, sông, nước”.

N.H.

Nguồn: VOA Tiếng Việt

This entry was posted in Thích Nhất Hạnh. Bookmark the permalink.