Nguyễn Đình Cống
1-Giới thiệu
Sách CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM, tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu), một người có vai trò quan trọng trong chính quyền của Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1963. Sách được hoàn thành vào năm 1962 với sự thảo luận, đóng góp ý kiến của một số nhà chính trị và nhà khoa học. Sách chưa kịp in thì xảy ra chính biến tháng 11/1963 – lật đổ nền Đệ Nhất Cộng hòa. Năm 1964 sách được in ra tại Sài Gòn, nhưng nhanh chóng bị thu hồi. Năm 1988 được in lại tại Nhà Xuất Bản Hùng Vương- Los Angeles- Mỹ.
Theo lời Nhà Xuất bản thì “Sách mở đầu bằng một lời vắn tắt của một đại văn hào Nhật Bản, Đức Phú Tô Phong, nói rằng: “Một dân tộc hùng cường là một dân tộc giàu chiến sĩ vô danh”. Phải chăng tác giả muốn ngụ ý rằng dân tộc VN cũng là một dân tộc hùng cường vì VN cũng giàu chiến sĩ vô danh”
Tôi được biết về “Chính đề Việt Nam” từ rất lâu, nhưng chỉ mới ở dạng các bài giới thiệu hoặc tóm tắt. Gần đây mới có dịp nghiên cứu toàn văn. Hiện nay sách có thể tìm thấy ở http://vnthuquan.net/.
Trong những bài giới thiệu tôi quan tâm nhiều đến bài của GS Tôn Thất Thiện (sinh năm 1924), viết năm 2009 với tựa đề “MỘT VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG, MỘT ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN”. GS Thiện là một học giả chuyên nghiên cứu vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến, ông cho rằng “Chính đề Việt Nam sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại..., là tài liệu xuất sắc nhất mà ông đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua”.
Sách được viết trong thời kỳ của chiến tranh lạnh với thế giới được chia thành hai phe (hai khối). Tạm gọi là A và B. Phe A tự cho mình là theo đường lối XHCN, yêu hòa bình, chống áp bức bóc lột, chống xâm lược, gọi phe B là bọn tư bản, đế quốc, gây chiến, xâm lược. B tự cho là Khối Thế giới Tự do, nơi người dân có quyền dân chủ, nhân quyền, phát triển xã hội theo Kinh tế thị trường, họ gọi A là Khối Thế giới Cộng sản, nơi sử dụng bàn tay sắt của chuyên chính vô sản để tước đoạt quyền tự do cá nhân và xóa bỏ tư sản.
Đứng đầu phe A là những người như Stalin, Mao Trạch Đông mà bên A ngợi ca là lãnh tụ thiên tài còn B gọi là những tên độc tài khát máu. B không có người đứng đầu rõ ràng, chỉ có những người đóng vai trò rất quan trọng, đó là các Tổng thống Mỹ được bầu theo nhiệm kỳ.
Ngoài hai khối A và B thì một số nước họp với nhau thành “Thế giới Thứ ba” gồm vài chục nước mà chủ yếu là những nước thuộc địa cũ, chậm phát triển.
Ở Việt Nam, sau năm 1954 đất nước tạm chia hai, là hình ảnh thu nhỏ của A, B trên thế giới. Thông thường gọi là “Hai Miền”, Bắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nam với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Gắn với chính trị thì A gọi chính quyền Miền Nam là Ngụy quyền, B thì xưng là Phe Quốc gia, gọi Miền Bắc là Phe Cộng sản (CS)
Sau khi chia hai đất nước thì có sự tập kết: Quân đội và người làm việc cho bên nào thì về bên đó. Riêng dân thường thì có sự di cư từ Bắc vào Nam mà hình như không có theo chiều ngược lại. Năm 1955 có phong trào “Chống cưỡng ép di cư” ở toàn Miền Bắc. Ngoài ra có một số đông theo Cộng sản nhưng được tổ chức cài đặt ở lại Miền Nam để dùng sau này. Hình như cũng có một số ít theo Quốc gia trốn lại Miền Bắc, nhưng nhanh chóng bị vô hiệu hóa.
Miền Bắc lo thiết lập Thời kỳ quá độ lên CNXH với cải cách ruộng đất, hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo Công thương gia, thành lập các nông trường, làm một số công trình, nhà máy, mở mang trường học. Những việc về kinh tế như cải cách, hợp tác, cải tạo v.v…chủ yếu là thất bại do làm trái quy luật tự nhiên chứ không bị một sự phản khàng nào đáng kể của thế lực thù địch. Về chính trị có nổi lên nhóm Nhân văn đòi tự do dân chủ, nhưng bị đàn áp ngay. Tuy có một số toán biệt kích từ Nam ra quấy phá và một vài phản ứng lẻ tẻ ở một số nơi, nhưng tất cả đều bị tiêu diệt nhanh chóng. Đồng thời với việc đưa Miền Bắc theo XHCN là tiến hành các công việc cần thiết để tiến tới giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Ý đồ Tổng tuyển cử vào năm 1956 đã không thành.
Hồ Chí Minh cho rằng đã có chủ nghĩa Mác Lê soi sáng, có Stalin và Mao Trạch Đông vạch đường nên ông và đảng của ông không cần sáng tạo gì thêm, xem Mác Lê là kim chỉ nam, là đuốc soi đường, chỉ tìm cách thực hiện nó cho phù hợp với hoàn cảnh và nhận sự viện trợ của Phe XHCN mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc.
Ngô Đình Diệm, sau khi đưa tiễn đội quân của Pháp ra khỏi đất nước và dẹp tan được các giáo phái chống đối, muốn xây dựng một Miền Nam thành hình mẫu của Thế giới Tự do, ngăn cản sự bành trướng của khối CS. Nhưng công việc này bị cản trở bởi lực lượng CS nằm vùng và của Miền Bắc với quyết tâm đánh đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Tình thế đó làm cho Diệm càng quyết tâm chống Cộng. Trong lúc Miền Bắc dựa vào Liên Xô và Trung Quốc thì Diệm phải dựa vào Khối Thế giới Tự do mà chủ yếu là Mỹ. Trong hoàn cảnh này Tùng Phong cùng các cộng sự nghiên cứu và viết ra Chính đề Việt Nam.
Không thấy rõ vai trò Ngô Đình Diệm trong việc nghiên cứu này, mặc dù Tùng Phong là người thân thiết với ông.
Đọc Chính đề Việt Nam tôi cảm phục Tùng Phong đã thể hiện lòng yêu nước Việt, thương dân tộc Việt, muốn tìm con đường đúng đắn để chấn hưng, để phát triển, đồng thời ông có những nhận định sáng suốt. Tuy vậy tôi không hoàn toàn nhất trí với mọi ý kiến của ông, không đề lên quá cao sách của ông (như GS Thiện) mà sẽ có những ý kiến phản biện.
Tôi sẽ trình bày các loại ý kiến sau: Một là những ý của Tùng Phong mà tôi thấy bình thường thì chỉ thuật lại mà không có nhận xét gì, phần lớn là loại này. Hai là những điều trước đây tôi chưa biết, chưa nghĩ tới, nay nhờ Tùng Phong mà biết được, tôi ghi chú bằng chữ (ý mới, mới đối với tôi nhưng chắc sẽ không mới với một số người khác). Ba là những ý kiến tương đối khác lạ với suy nghĩ bình thường của nhiều người, tôi cũng đã nghĩ tới, một số đã viết ra, nay thấy Tùng Phong đề cập, mới biết rằng mình cũng chỉ là một trong những người đồng thời nghĩ ra vấn đề đó, được ghi chữ (trùng ý). Bốn là một số ý của Tùng Phong mà tôi chưa tán thành. Những điều này cần được suy nghĩ và chiêm nghiệm kỹ hơn, được ghi chữ (phản biện). Tôi sẽ lần lượt theo nội dung sách mà trình bày các ý kiến. Viết ra những điều như thế với mong ước được trao đổi với những ai quan tâm để có thể hoàn thiện được tư tưởng và may ra có thể đóng góp được gì đó cho cộng đồng.
Viết bài này cũng gần như tôi tóm tắt sách “Chính đề VN”.
Ghi chú: Để phân biệt với câu văn do tôi viết ra, mọi câu trích dẫn của Tùng Phong hoặc của người khác đều được in nghiêng và đặt trong dấu ngoặc kép “…”. Thỉnh thoảng tôi có chen vào vài điều bình luận để trình bày ý kiến cá nhân, ngoài những nhận xét hoặc phản biện đã viết.
2- Bối cảnh của vấn đề
Mở đầu sách là những trình bày về: Vị trí của VN trong thế giớ hiện tại (1962), hình ảnh lịch sử của cộng đồng, Quốc gia, Cộng sản và sự phân chia lãnh thổ; Đường lối phát triển của dân tộc.
Tùng Phong chia cộng đồng làm hai phần: Thiểu số và đa số (trùng ý) và gán cho Thiểu số làm lãnh đạo và đa số được lãnh đạo. Điều này chỉ đúng một phần vì có những cộng đồng mà thiểu số là thống trị, độc tài, còn đa số là bị trị (phản biện). Từ đây trở xuống tôi chỉ gọi họ là Thiểu số và Đa số, chỉ khi nào cần nhấn mạnh mới kèm thêm định ngữ lãnh đạo hoặc thống trị và bị trị).
Tùng Phong nhận định “VN là nước nhỏ về dân số, về lãnh thổ, kinh tế kém phát triển và không có đóng góp gí đáng kể vào văn minh nhân loại. Chúng ta bị chi phối bởi sự vô trách nhiệm của các nước lớn, luôn bị đe dọa nạn ngoại xâm”. Tôi chỉ tán thành một phần vì cho rằng VN không thuộc loại dân số ít (không những bây giờ, năm 2022 mà cả vào thời năm 1962), lãnh thổ không đến nỗi bé, hơn nữa có vị trí địa lý khá tốt. VN không có đóng góp gì vào văn minh nhân loại vì kém phát triển, vì yếu chứ không phải vì nước nhỏ, VN luôn bị đe dọa nạn ngoại xâm chủ yếu là từ dã tâm của Đại Hán chứ không còn từ phương Tây. Bị chi phối bởi sự vô trách nhiệm cùa các nước lớn cũng vì ta yếu kém chứ không thể đổ lỗi cho ai được. (Một số người Việt tự hào là đóng góp lớn cho nhân loại bằng cách mạng giải phóng thuộc địa, lập chính quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Xin chưa bàn đến điều này đúng sai đến đâu).
Tôi tán thành với Tùng Phong rằng sự yếu kém của cộng đồng chủ yếu do thiểu số lãnh đạo kém phẩm chất là chủ yếu (trùng ý). Nguyễn Trãi viết: “Như nước Đại Việt ta…Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau mà hào kiệt đời nào cũng có”. Mạnh là khi hào kiệt được trọng dụng, lúc đó dân tộc sẽ đoàn kết, mạnh lên, yếu là khi hào kiệt bị thiểu số thống trị loại bỏ, dân tộc sẽ bị phân tán và có nguy cơ tan rã. Tùng Phong đã viết rất đúng rằng thiểu số lãnh đao cần có được NHÂN, DŨNG, LƯỢC và thấu triệt được vấn đề của cộng đồng, từ đó mới chọn được đường lối đúng.
Đa số, dù được lãnh đạo hoặc bị trị, là những người dân, lý do sống là vì cá nhân, nhưng điều kiện sống là thuộc cộng đồng (ý mới). Hai điều này thường phù hợp nhưng nhiều khi xảy ra mâu thuẫn, lúc này người dân phải chấp nhận một sự hy sinh nào đó. Vậy đa số cũng cần phải thấu triệt được vấn đề của cộng đồng. Thiểu số có nhiệm vụ giúp đa số làm việc này (đó là
nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí).
Giữa thống trị và bị trị thường xuyên có mâu thuẫn. Giữa lãnh đạo và được lãnh đạo cũng có những lúc phát sinh mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn chủ yếu trong cộng đồng. Để giải quyết mâu thuẫn thì thiểu số lãnh đạo cần phải: (1)Tôn trọng tinh thần dân chủ, là một lợi khí sắc bén, (2) Phát huy sự hiểu biết của đa số đối với vấn đề cần giải quyết của quốc gia để củng cố tinh thần dân tộc.
Khi đất nước bị chia cắt, sự tranh giành ảnh hưởng giữa phe Quốc gia và phe Cộng sản đã làm tan rã dân tộc. Chống Cộng mà chỉ nhằm vào việc loại bỏ cá nhân và tổ chức, dù có quyết liệt đến đâu cũng chỉ là chống một cách tiêu cực. Cần vạch ra rằng CS chỉ là một lý thuyết tranh đấu tự ngoại lai, nó sẽ đưa dân tộc vào con đường đen tối. Chống Cộng tích cực phải trên cơ sở thực trạng của Quốc gia và có giải pháp để thay thế.
Bình luận: Ai cũng nói rất giỏi về việc đánh giá đúng thực trạng, về vấn đề cần giải quyết, nhưng nói thì dễ, làm được rất khó vì bị chi phối bởi chủ nghĩa này, học thuyết kia, lãnh đạo nọ. Vậy để có một đánh giá tương đối đúng về thực trạng, có thể tin được, cần phải có sự điều tra toàn diện của một tổ chức trung lập, một cách khách quan, trung thực, không bị chi phối bởi bất kỳ học thuyết, chủ nghĩa hoặc sự lãnh đạo nào cả (ngưng BL).
Phần cuối của mục “Bối cảnh…” – Tùng Phong viết về vai trò cá nhân, rằng ông luôn đứng ở vị trí lịch sử để nhìn tất cả các vấn đề mà không bao giờ đứng ở vị trí tôn giáo. Ông còn đưa ra và giải thích cách hành văn trong quyển sách, chủ yếu dùng nhiều danh từ hơn động từ nhằm diễn tả rõ, hết, các tư tưởng một cách bao quát, vững chắc (ý mới).
3-Phần I- Nhận định về thế giới
Từ giữa thế kỷ 20, về chính trị thế giới chia thành hai phe như đã mô tả ở trên, mỗi phe có cách lãnh đạo riêng.
Về văn hóa, thế giới lại chia ra 5 vùng. Một là vùng Âu Mỹ, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp; Hai là vùng Ả Rập, Trung Đông, chịu ảnh hưởng của Đạo Hồi; Ba là vùng Đông Á chịu ảnh hưởng văn hóa Trung hoa cổ đại; Bốn là vùng Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ; Năm là vùng Châu Phi da đen
Về khoa học kỹ thuật thì khác. Nền khoa học kỹ thuật và văn minh Phương Tây đã chinh phục toàn bộ.
Tung Phong đi đến nhận xét: “Vì vậy cho nên ngày nay trên thế giới vấn đề Tây phương hóa (TPH) là một vấn đề thiết yếu cho các quốc gia muốn tồn tại, mặc dầu TPH theo kiểu khối tự do hay TPH theo kiểu khối CS. Và đó cũng là vấn đề thiết yếu cho nước VN”.
Bình luận: Cách nhìn của Tùng Phong có phần đúng nhưng quá thiên lệch về khoa học kỹ thuật, khác với cách nhìn của sách “Tại sao các quốc gia thất bại” cho rằng sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thể chế kinh tế và thể chế chính trị (ngưng BL).
Về CS. Tùng Phong nhận đình rằng CS ở Tây phương, ở Nga Xô và ở Châu Á là khác nhau.” Ở Tây phương thuyết CS là một phương thuốc được đề nghị để chữa căn bệnh cho xã hội trong một giai đoạn phát triển cam go, về sau các nhà lãnh đạo của họ lại tìm được phương thuốc khác (và họ đã loại bỏ CS) ….Nga Xô chỉ xem thuyết CS là một phương tiện và chỉ có giá trị là một phương tiện…Nhưng sang châu Á thuyết CS chỉ còn là một phương tiện để đánh kẻ xâm lăng và một phương hướng phát triển….. Một số lãnh tụ CS châu Á hoàn toàn lầm lẫn khi họ say mê mà tôn thờ thuyết CS như là một chân lý…Mao Trach Đông đã nhìn thấy rõ các điểm trên đây. Sự khác biệt giữa các phương pháp CS ở Nga và Tàu là một bằng cớ”.
4 – Phần II (A)- Vị trí của VN trong khung cảnh TG vừa trình bày
Tùng Phong đưa ra 4 điểm:
1-VN là nước nhỏ kém mở mang.
2-Theo truyền thống văn hóa VN thuộc xã hội Đông Á.
3-VN thuộc khối các nước châu Á vừa thoát khỏi ách thực dân, đế quốc.
4-VN đang cần TPH để bảo vệ độc lập, phát triển kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Về điểm 1– Là nước nhỏ kém mở mang nên lâm vào tình trạng: 1-Thiếu kỹ thuật, 2-Lợi tức quốc gia kém, 3-Mức sống nhân dân thấp, 4-Việc mưu sinh chiếm hết nhiều thời gian, 5-Sự sáng tác kém giá trị và không có đóng góp gì cho văn minh thế giới. Những điều này tạo nên vòng luẩn quẩn. Phải tìm cách phá bỏ vòng đó.
Về điểm 2- VN thuộc xã hội Đông Á. Vì lý do địa lý và lịch sử nên TPH sẽ gặp trở ngại. Phải nhận rằng TPH không làm mất bản chất dân tộc .
Về điểm 3– VN vừa thoát khỏi ách thực dân, đế quốc. Họ có hai loại. Đế quốc kiểu Anh nghĩ tới ngày trả lại độc lập cho bản xứ nên quan tâm đào tạo người thay thế. Đế quốc kiểu Pháp, Hà Lan, Bỉ không nghĩ như thế, không làm thế. VN đã phải chịu tai họa đó. Vì vậy sau khi giành độc lập, người Việt, trừ một số rất ít đã tự học hỏi để chế ngự ngành hoạt động của mình, còn số đông là những người mang nặng các khuyết điểm như kiến thức rời rạc, kém khả năng tổng hợp, tâm lý vô trách nhiêm, chỉ quen làm tay sai, quan liêu.
Vì bị làm thuộc địa, rồi đấu tranh giành độc lập nên VN lâm vào cảnh “Lãnh đạo quốc gia bị gián đoạn”. Khi lãnh đạo QG được liên tục do chuyển giao trong hòa bình thì mới có thể gìn giữ, nối tiếp những bí mật, những truyền thống tốt đẹp, rất cần để phát triển (ý mới). “Chế độ độc tài hay quân chủ chuyên chế hoàn toàn bất lực trong việc bảo đảm một sự lãnh đạo QG liên tục”.
Về vấn đề tình trạng bị gián đoạn hoặc liên tục của lãnh đạo quốc gia, Tùng Phong đã viết khá dài những nhận định chung, tình trạng của VN và của một số nước như Anh, Nga, và đặc biệt là Nhật, Thái Lan, Trung Quốc.
Khi thay đổi đường lối lãnh đạo quốc gia (chúng ta gọi là đổi mới tư duy), Tùng Phong cho rằng: “ Người lãnh đạo (LĐ) phải thay đổi tư tưởng hay là phải thay đổi người LĐ. Kinh nghiệm chỉ ra rằng không bao giờ người LĐ thay đổi tư tưởng trong lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ phải mất rất nhiều thì giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lý chính trị mà họ chủ trương…Vì vậy cho nên yêu cầu một người LĐ thay đổi tư tưởng khi đang hành động là một việc không bao giờ thực hiện được….Như vậy, chỉ còn cách là thay đổi người LĐ” (trùng ý).
Bình luận: Tôi cũng từng nghĩ như Tùng Phong, không thể yêu cầu người LĐ thay đổi tư tưởng. Với mỗi người “đổi mới tư duy” là do họ, sau khi tiếp nhận những tư tưởng mới, tự biết mình đang lạc hậu, tự mình thay đổi chứ không ai thay đổi được họ. Với tổ chức thì “đổi mới tư duy” là dùng người có tư duy mới thay cho người có tư duy cũ, không nên tin vào lời nói của một số người rằng “Tôi xin hứa sẽ đổi mới tư duy”. Tuy vậy tôi cũng nhận thấy một số trường hợp rất đặc biệt là người LĐ, do một tác động đột xuất và mạnh mẽ nào đó mà “NGỘ” ra được những sai lầm của triết lý đang theo đuổi. Phải chăng ông Trường Chinh trước ĐH 6 của ĐCSVN là một thí dụ. Thế rồi Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã triệt hạ Trần Độ và Trần Xuân Bách. Phải chăng đất nước đang gặp vận Thiên Địa – Bỉ. (ngưng BL)
Vì người LĐ quốc gia không thỏa mãn được những yêu cầu cấp thiết của cộng đồng nên đẩy xã hội đến tan rã. Đó là một trạng thái khắc nghiệt.
Về điểm 4- VN cần Tây phương hóa để phát triển dân tộc
Tùng Phong đã điểm qua sự TPH của Nhật, Nga. Về Ấn Độ, một thời gian Ghandi bài xích Tây phương, nhưng rồi họ cũng tiến hành TPH để phát triển.
Tùng Phong đi đến kết luận: “Công cuộc phát triển dân tộc chúng ta bằng cách TPH là một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy ra dân tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai…Tất cả mọi người VN chúng ta đều phải quả quyết tin rằng chúng ta cần phải dốc hết nổ lực để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc, bằng cách TPH xã hội chúng ta một cách toàn diện mà không do dự”. Tùng Phong còn cho rằng TPH phải toàn diện vì TPH có giới hạn nhất định sẽ thất bại.
Bình luận: Kết luận như vậy có phần cực đoan, nhất là về hình thức. Khi nói “Tây Phương” thì ngụ ý nhiều đến con người hơn là địa lý. TPH có nghĩa là học và làm theo người Tây phương. Đức Phật có dạy “Y PHÁP BẤT Y NHÂN” có nghĩa là học theo PHÁP chứ không theo NGƯỜI. Cách nói “Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa” hơi dài mà cũng chưa bao quát, phải chăng gọi ngắn gọn là “Hiện đại hóa” là tạm ổn vì trong đó bao gồm nhiều lĩnh vực. Cho rằng không có lối thoát thứ hai và TPH có giới hạn nhất định sẽ thất bại cũng là vội vàng. Mà nhấn mạnh TPH thì còn phải tìm cách tháo gỡ đặc điểm của xã hội Đông Á, có nền văn hóa đặc thù (ngưng BL).
Tùng Phong có đưa ra những lập luận để chứng minh rằng đã TPH thì phải toàn diện, ở mức đủ cao, tuy vậy những chứng minh đó chưa hoàn toàn chặt chẽ.
Tùng Phong đưa ra ví dụ về nước Nga, trước đây tuy Nga có TPH được phần nào về khoa học kỹ thuật nhưng không toàn diện nên may nhờ có dân đông mới trụ vững. Mãi sau này Nga mới hiểu được để TPH toàn diện, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Ông viết “Nhiều người lầm tưởng rằng chỉ thu nhập được kỹ thuật mới của Tây phương là đủ bảo vệ nền văn minh cũ”. Không phải như vậy mà: “Nếu chúng ta thâu nhập một kỹ thuật mới của Tây phương thì chúng ta phải thâu nhập toàn bộ kỹ thuật của họ”. Đầu tiên là khả năng sáng tạo kỹ thuật.
Tây phương hóa đến mức độ đủ cao là thiết yếu, nhưng vô cùng khó khăn,”nó đòi hỏi ở toàn dân những nổ lực lớn lao và những hy sinh nặng nề”
Về độc lập dân tộc: Đã có nhiều hy sinh để giành độc lập, nhưng theo Tùng Phong thì: “Độc lập không phải là mục đích cuối cùng mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết…để có thể phát triển được dân tộc” (ý trùng). Mà phát triển dân tộc không gì hơn là TPH. Ông nhận xét rằng một số dân Việt tập hợp lại dưới cờ Cộng sản chính là vì độc lập dân tộc và đặt câu hỏi: “Khi bước sang giai đoạn phát triển dân tộc sự quy tụ dưới cờ CS có phải là một hành động lợi ích cho dân tộc không?”
Bình luận: ĐCSVN lãnh đạo toàn dân đấu tranh để được độc lập và thống nhất phải chăng là để đem học thuyết của họ áp đặt lên toàn bộ dân tộc, việc họ nói vì tự do và hạnh phúc của nhân dân chỉ là để tuyên truyền (ngưng BL).
Tùng Phong nêu vấn đề: “Nếu chúng ta phải thực hiện cuộc TPH toàn diện và đến mức độ cao thì liệu bản chất dân tộc chúng ta có tòn tại nữa không?. Và nếu sau cuộc TPH mà bản chất dân tộc bị mất thì nó có đáng để chúng ta theo đuổi…và như vậy thì chúng ta TPH để bảo vệ cái gì?.
Nêu ra như thế rồi ông sẽ lần lượt chứng minh là TPH chủ động không thể làm mất bản sắc dân tộc. Còn nếu bị ép buộc TPH thì có thể mất cả bản sắc dân tộc mà có nguy cơ mất cả độc lập.
(Còn tiếp)
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN