Chu Hảo
Nhân cuộc thảo luận “Tiên học lễ hậu học văn” đang diễn ra sôi nổi trên mạng, anh Nguyễn Quang A đề xuất trao đổi vấn đề “triết lý giáo dục”, được anh Vũ Ngọc Hoàng tán thành. Hồ hởi hưởng ứng lời kêu gọi của anh Quang A và các anh chị, tôi xin gửi bài tôi đã viết từ 2008 trong file kèm theo, hình như nó chỉ trôi nổi trên mạng chứ chưa được đăng ở báo chí nào. Tuy hơi cũ nhưng hình như vẫn có vẻ thời sự. Nếu được các anh chị quan tâm tôi rất lấy làm vinh hạnh! Chúc cuộc thảo luận thành công!
Chu Hảo
I. Nền giáo dục quốc dân của chúng ta vẫn đang cần có một cuộc cải cách triệt để mang tính cách mạng. Các phong trào mà Bộ Giáo dục phát động ( “Nói không với tiêu cực” từ năm trước, cho đến “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương” và “Ngôi trường thân thiện”.v.v…gần đây) tuy có làm cho bộ mặt của nền giáo dục có vẻ khởi sắc hơn, nhưng đó chỉ là bề nổi. Ở bề sâu, nhìn từ tổng thể, cái bất cập tồn tại hàng chục năm nay vẫn còn nguyên đó:
1. Hệ thống GDQD của chúng ta không đồng bộ, không liên thông, mất cân đối trầm trọng.
2. Nội dung giáo dục (chương trình, sách giáo khoa) của chúng ta bất cập về mặt khoa học, rất nặng nề về thời lượng và nhiều nội dung không thiết thực.
3. Phương pháp dạy và học ở các cấp đều lạc hậu, cơ sở vật chất và kỹ thuật quá thiếu thốn.
4. Công tác quản lý giáo dục yếu kém thể hiện ở ba mặt: Tài chính công được sử dụng kém hiệu quả và không minh bạch; Thiếu vắng hẳn đội ngũ chuyên gia về páht triển chương trình giáo dục; Không coi trọng hệ thống đo lường, trắc nghiệm để đánh giá giáo dục một cách khách quan và thường xuyên.
5. Chưa đủ hệ thống pháp luật để đảm bảo hành lang pháp lý cho các hoạt động giáo dục. Chẳng hạn chưa có văn bản luật pháp điều chỉnh hoạt động của các trường tư bất vụ lợi, là loại trường tư cần được khuyến khích, trong khi đó đã có quy định cụ thể cho các trường tư (cổ phần) vì lợi nhuận, là loại trường chưa hẳn đã nên được khuyến khích thành lập tràn lan dưới danh nghĩa “xã hội hóa”
Có điều hết sức lạ lùng là mặc cho dư luận xã hội có vẻ như ngày càng bức xúc, nhưng mọi việc vẫn đâu ở đấy. Hình như các kiến nghị của nhóm Giáo sư Hoàng Tụy (2004), của nhóm Trí thức Việt kiều (2005 và 2008), của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (2006), của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (2007), của nhóm Bà Nguyễn Thị Bình (2008) đều cứ như là “đấm vào bị bông”. Những cá nhân và tổ chức có trách nhiệm không đối thoại, không thanh minh, không bác bỏ…Việc họ họ cứ làm; tiếp tục phát động các phong trào, triển khai các đề án (kiểu như “2 vạn tiến sỹ”, “4 Đại học Quốc tế”,…) và thực hiện các biện pháp chắp vá (như kiểu sửa sách giáo khoa phổ thông, gộp các kỳ thi.v.v…). Mọi người đâm nản. Nhiều người cho rằng có lẽ phải làm lại từ đầu, từ khâu thay đổi tư duy về giáo dục của toàn xã hội và của những người hoạch định chính sách giáo dục. Nhưng thay đổi tư duy trên cơ sở triết lý giáo dục nào? Có lẽ những bất cập mà chúng ta đã liệt kê có cội nguồn sâu sắc từ chỗ bấy lâu nay nền giáo dục quốc dân của chúng ta đã không được xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền tảng lý luận vững chắc, mà trên cơ sở kinh nghiệm chắp vá và duy ý chí. Nền tảng lý luận mà chúng ta cần phải dựa trên một triết lý giáo dục hiện đại phản ánh đầy đủ mục tiêu và các nguyên lý căn bản của giáo dục.
II. Loài người vẫn đang trên một hành trình bất tận để hiểu được “Ta là ai? Từ đâu tới? Đi về đâu? Và tại sao?”. Trên hành trình gian khổ ấy vấn đề giáo dục nổi lên như một phạm trù cốt lõi của sự tiến bộ xã hội. Ngay từ thế kỷ 4 trước công nguyên Plato là người đầu tiên chủ tâm giảng giải cho nhân loại biết thế nào giáo dục: Một xã hội ổn định khi mỗi cá nhân làm công việc phù hợp với những năng khiếu tự nhiên theo cách anh ta có ích cho những người khác (hay đóng góp cho cái toàn thể mà anh ta thuộc về); và nhiệm vụ của nền giáo dục là phát triển những năng khiếu tự nhiên này và huấn luyện chúng dần dần cho mục đích xã hội. Triết lý cao sang này, tiếc thay lại là điều không tưởng vì nó dựa trên giả thiết rằng đã có một tổ chức xã hội công bằng – dân chủ lý tưởng (cái chưa bao giờ tồn tại trong lịch sử loài người).Ở đó chỉ thấy vai trò của các giai tầng xã hội mà không thấy có các cá nhân tự do. Tuy nhiên triết lý của Plato vẫn là ngọn hải đăng giáo dục cho mọi tổ chức xã hội cho đến tận thế kỷ 18 với quan niệm cho rằng: Sứ mạng của giáo dục là chuẩn bị cho người học gia nhập vào một xã hội nhất định nào đó để phục vụ cho xã hội ấy[1].
Đến giữa thế kỷ 18 J.J Rouseau đã đưa ra ý tưởng mới mang tính cách mạng: Con người sinh ra là thiện, mọi xã hội đều có xu hướng làm hỏng cái thiện có sẵn ấy trong con người; và vì vậy sứ mạng chủ yếu của giáo dục là làm cho cái bản tính tốt đẹp tự nhiên của con người được duy trì và phát triển, chứ không phải là đào tạo con người theo lợi ích của xã hội (đã bị chính con người làm cho tha hóa); và rằng con người chỉ có một nghề duy nhất là “Làm người”. Triết lý “vị cá nhân” mang tính “phòng vệ (negative)” này, tiếc thay cũng gặp phải một trở ngại lớn: “Môi trường tự nhiên” cần thiết cho đứa trẻ đi học có thể phát huy được cái “thiện” của mình chỉ sản phẩm thuần túy tư duy của Rouseau mà thôi[2]
Muộn hơn một chút, vào cuối thế kỷ 18 E.Kant lại có một cách nhìn nhận khác hẳn: Nhân loại bắt đầu lịch sử của mình trong tình trạng bị tự nhiên khống chế – chứ không phải với tư cách con người là một sinh vật có lý trí, trong khi đó tự nhiên chỉ cung cấp bản năng và lòng ham muốn. Vì vậy theo Kant: “Con người là tạo vật duy nhất cần phải được giáo dục” hay “Con người là những gì được giáo dục tạo nên”. Và như vậy lúc đầu triết lý giáo dục của thế kỷ 18 mang nặng tính cá nhân chủ nghĩa Rouseau, nhưng sau đó Kant và những người khác (Fiche, Hegel…) đã bổ sung thêm yếu tố “nhân loại” thông qua vai trò điều hành và giám sát của xã hội – nhà nước để dung hòa hai mục tiêu cơ bản của giáo dục: hoàn thiện con người vì bản thân con người và cung cấp kỹ năng để phục vụ xã hội – nhà nước[3].
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cùng với sự xuất hiện trào lưu thực dụng luận (Pragmatism) trào lưu tân giáo dục đã ra đời ở Mỹ mà người khởi xướng là John Dewey. Theo ông “Triết lý giáo dục là lý luận giáo dục xét như một thực tiễn được thực hiện một cách có chủ tâm”[4]. Bởi vậy triết lý giáo dục nào cũng phải chứa đựng những điều cốt lõi sau đây: mục tiêu tối hậu của giáo dục là gì? Và để đạt mục tiêu ấy cần phải hành động theo phương châm nào? Và bằng phương pháp nào? Ở thời đại của Dewey, cứu cánh của giáo dục có lẽ không khác mấy so với một thế kỷ trước: Hoàn thiện con người và phục vụ xã hội. Nhưng màu sắc “thực dụng vị kỷ” đã bắt đầu nhuốm vào giáo dục như một xu thế. Đến nỗi Einstein người cùng thời với Dewey đã phải cảnh báo: “Dạy cho con người một chuyên ngành thì chưa đủ. Bởi bằng cách đó, anh ta tuy có thể trở thành một cái máy khả dụng nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Điều quan trọng là anh ta phải được dạy để có được một cảm thức sống động về cái gì là đáng để phấn đấu trong cuộc đời. Anh ta phải được dạy để có được một ý thức sống động về cái gì là đẹp và cái gì là thiện. Nếu không, với kiến thức được chuyên môn hóa của mình, anh ta chỉ giống như một con chó được huấn luyện tốt hơn là một con người được phát triển hài hòa. Anh ta cần phải học để hiểu những động cơ của con người, hiểu những ảo tưởng và những nỗi thống khổ của họ để tìm được một thái độ ứng xử đúng đắn với từng con người đồng loại của mình cũng như với cộng đồng”[5].
Thế nhưng các nguyên lý cơ bản về phương châm, phương pháp giáo dục của Dewey mới thực sự đã làm nên một cuộc cách mạng mới trong giáo dục. Tư tưởng “Tân giáo dục” của Dewey phủ nhận hoàn toàn nền giáo dục truyền thống đã từng được áp dụng từ thời Plato cho đến thời điểm đó. Bắt nguồn sâu xa từ các thuyết nhị nguyên (chia cắt các cặp phạm trù tưởng như đối lập như con người – tự nhiên, tư duy – hành động, lý thuyết – thực nghiệm, học – hành.v.v…). nền giáo dục truyền thống đã tách biệt một cách phản dân chủ giữa nhà trường và xã hội, giáo dục và cuộc sống, thày giáo và học trò. Dewey chủ trương: Giáo dục không chỉ như là quá trình truyền đạt mà chính là bản thân cuộc sống; nhà trường không tách rời khỏi xã hội; và học trò là trung tâm của quá trình giáo dục. Ngày nay những nguyên lý giáo dục này vẫn là ngọn đuốc soi đường cho giáo dục ở các xã hội dân chủ.
Từ cuối thế kỷ 20 đã xuất hiện hai khuynh hướng mới trong giáo dục đáng được quan tâm. Đó là khuynh hướng “Tân tự do” và khuynh hướng “Tân phòng vệ”. Hai khuynh hướng này đối chọi nhau về mặt triết lý. Khuynh hướng “Tân tự do” coi giáo dục chủ yếu là hàng hóa, đầu tư cho việc học tập là đầu tư cho “vốn con người” cực kỳ vị kỷ vì nó được coi là của cải tư, mang đến lợi tức cho người có cái vốn đó[6]. Khuynh hướng “Tân phòng vệ” coi giáo dục chủ yếu là công ích, nhằm đào tạo những con người của và vì xã hội – nhân loại, trùng hợp với quan điểm của Rouseau về một nền giáo dục “phòng vệ”. Nhưng “Tân phòng vệ” không đặt nhà trường “bên ngoài” xã hội như Rouseau, mà ngay trong xã hội phức hợp, đa dạng và bất định và coi mục đích cuối cùng của giáo dục hiện đại là[7]:
1. Hình thành những khối óc được rèn luyện tốt; đào tạo những con người có đủ năng lực tổ chức và liên kết các trí thức để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân mình và cho toàn xã hội chứ không phải nhồi nhét kiến thức theo kiểu chất vào kho.
2. Giáo dục về hoàn cảnh con người, làm cho mọi người có ý thức sâu sắc thế nào là một con người. Dạy cho thế hệ trẻ cách sống, chuẩn bị cho họ biết cách đối mặt với những khó khăn và những vấn đề chung của cả loài người.
3. Thực tập tư cách công dân của đất nước và của toàn thế giới; có năng lực đối thoại, khoan dung trong thế giới phức hợp và đa dạng.
III. Thế giới thì như vậy, còn chúng ta thì sao? Cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, từ xưa đến nay những vấn đề lý luận nền tảng của giáo dục chưa bao giờ được chúng ta đặt ra và nghiên cứu một cách bài bản và cẩn trọng. Phần nhiều làm theo kinh nghiệm và duy ý chí. Thay vì phải cung cấp các kiến thức cơ bản và phổ quát của triết học, trong các nhà trường của chúng ta chỉ dạy chính trị. Có lẽ cũng vì vậy mà triết lý giáo dục cũng được thay bằng các khẩu hiệu chính trị trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước
Mặc cho các lời hay ý đẹp về quan điểm (hay triết lý) giáo dục từng được nói lên trong những văn kiện ấy, nhưng trong thực tiễn nền giáo dục của chúng ta không nhằm đào tạo ra những con người được phát triển toàn diện với đầy đủ phẩm giá: có nhân cách, và có khả năng tư duy phê phán độc lập, sáng tạo. Nền giáo dục này đang thực hành kiểu nhồi nhét kiến thức như “chất vào kho”; và khuyến khích sự thụ động, khuôn sáo và tinh thần khoa cử. Điều này trái hẳn với triết lý Giáo dục nhân văn và sáng tạo của nền văn minh hiện đại.
Trong thực tiễn nền giáo dục của chúng ta không tạo được niềm hạnh phúc khi tới trường. Ngày nay đi học là một gánh nặng, nhất là ở cấp học phổ thông. Đối với rất nhiều em tới trường là một nỗi nhọc nhằn, khổ sở; tuổi thơ của các em đang bị “đánh cắp” bởi một chương trình giảng dạy nặng nề, nhàm chán và không thiết thực. Điều này trái hẳn với triết lý Hạnh phúc giáo dục của nền văn minh hiện đại.
Trong thực tiễn nền giáo dục của chúng ta không tạo dựng được sự Công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, đặc biệt là cho trẻ em ở tuổi nhà trẻ và mẫu giáo. Hàng năm nước ta có khoảng 8 triệu trẻ em dưới 6 tuổi; trong số đó chỉ có khoảng hơn 3 triệu em được đến nhà trẻ, lớp mẫu giáo. Ngay cả các em được đến lớp ấy cũng chưa chắc gì được nuôi dạy một cách chu đáo như mới đây chúng ta được chứng kiến hình ảnh một nhà trẻ ở Đồng Nai. Vậy mà lứa tuổi cần được hưởng sự công bằng về cơ hội học tập nhất lại là lứa tuổi từ dưới 1 đến 5. Đặc biệt là khuynh hướng thương mại hoá giáo dục đang là nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với xã hội. Điều này trái hẳn với triết lý Công bằng giáo dục của nền văn minh hiện đại.
Trong thực tiễn nền giáo dục của chúng ta áp dụng một hệ thống quản lý tập trung quá mức, Nhà nước ôm vào mình những chức năng không cần có, làm mất quyền chủ động, linh hoạt của các cấp cơ sở. Quyền tự quản không được thực thi, đặc biệt là ở các trường Đại học. Ngay trong nhà trường sự mất dân chủ giữa người dạy và người học đã trở thành thâm căn cố đế. Điều này trái hẳn với triết lý Dân chủ giáo dục của nền văn minh hiện đại.
Từ những nhận xét trên đây chúng ta có thể thấy rằng một cuộc cải cách toàn diện và triệt để hệ thống giáo dục của nước ta là một yêu cầu cấp bách, không thể nấn ná được nữa, không thể tiếp tục tiến hành những Đề án Đổi mới chắp vá và thiếu hiệu quả như hơn hai mươi năm vừa qua được nữa. Một giải pháp tổng thể và đồng bộ nhằm chấn hưng (hay là làm lại?) nền giáo dục nước nhà không thể được đề xuất trong một thời gian ngắn (dưới 6 tháng), và chỉ bởi các chuyên gia trong nội bộ ngành giáo dục hoặc một nhóm chuyên gia độc lập nào. Phải coi đây là một Công trình lớn của quốc gia, phải được chuẩn bị chu đáo một vài năm, với sự tham dự của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau và dưới sự lãnh đạo của một Tổng công trình sư tài giỏi, công tâm và chuyên trách (chứ không kiêm nhiệm, làm “tay trái” như lâu nay vẫn thường xảy ra). Vì vậy chúng tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của các nhóm nghiên cứu về cải cách giáo dục của bà Nguyễn Thị Bình và của GS. Hoàng Tuỵ về việc thành lập Uỷ Ban cải cách giáo dục Quốc gia, hoạt động độc lập đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, với nhiệm vụ: Trong thời gian từ nay đến năm 2010 soạn thảo Chiến lược cải cách và phát
triển giáo dục giai đoạn 2010 đến 2020 với tầm nhìn đến 2030 và xa hơn. Chiến lược này phải lấy việc đổi mới tư duy về triết lý giáo dục là khâu đột phá. Trong khi chờ đợi chúng tôi xin đề nghị tiến hành ngay một số biện pháp cấp bách sau đây:
1. Tạm dừng việc soạn thảo “Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2008-2020” mà Bộ Giáo dục đang tiến hành. Trước hết phải đặt câu hỏi vì sao lại chọn thời điểm từ 2008 trong khi chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt đang được thực hiện và chưa đánh giá tổng kết? Sau nữa là vì nội dung bản dự thảo còn rất nhiều bất cập như ý kiến của nhiều người đã được lấy ý kiến tham khảo.
2. Kiên quyết không mở thêm mới các dự án lớn và tạm dừng các dự án đang làm thiếu hiệu quả của ngành giáo dục như Chính phủ đã thực hiện đối với các dự án khác trong Chiến dịch chống lạm phát hiện nay. Đặc biệt nên xem xét lại ngay Dự án Bốn trường Đại học Quốc tế đang được Bộ GD&ĐT triển khai.
3. Tiến hành kiểm tra tài chính công cho Giáo dục (không phải chỉ do Bộ GD&ĐT quản lý) và công khai, minh bạch mọi khoản chi tiêu trong 10,15 năm gần đây. Và sau đó mới xem xét đến chủ trương tăng học phí ở các cấp mà Chính phủ đang trình Bộ Chính trị phê duỵệt.
4. Thực hiện ngay một số biện pháp đột phá trong quản lý giáo dục để chuẩn bị tiền đề cho công cuộc cải cách sẽ được thực thi trong vài năm tới. Không có hệ thống quản lý giáo dục (con người, bộ máy và cơ chế) tốt thì không có cuộc cải cách nào có thể thành công.
Hà nội ngày 15 thàng 9 năm 2008
C.H.
Chú thích
[1] Jonh Dewey, Dân chủ và giáo dục, NXB Tri thức 2008, trang 114 – 117
[2] J.J. Rouseau, Emile hay là về giáo dục, NXB Tri thức 2008, xem lời giới thiệu của Bùi Văn Nam Sơn
[3] Jonh Dewey, sđd, trang 118 – 126
[4] Jonh Dewey, sđd, trang 390
[5] A. Einstein, Thế giới như tôi thấy, NXB Tri thúc 2007, trang 48
[6] Cao Huy Thuần, Tạp chí thời đại mới số 14, www.tapchithoidaimoi.org
[7] Edgar Morin, Liên kết Tri thúc, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007
Tác giả gửi BVN