“Giấy phép kinh doanh có điều kiện” không phải là thuốc chữa bệnh dạy thêm cho ngành Giáo dục

Nguyễn Ngọc Chu

Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'Công annhândân ONLINE Đề xuất đưa day thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện 09:15 11/06/2020 CAND Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã có công văn gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Kế hoạch Đầu tư về việc đưa dịch vụ dạy thêm, học thêm văn hóa theo chương trình giáo dục phổ thông vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện.'

Không trực tiếp nghe Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn trả lời chất vấn của ĐBQH hôm 11/11/2021, nhưng được biết từ truyền thông về đề xuất “Đưa dạy thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện”. Vậy nên xin nêu vài lưu ý như dưới đây.

1. SỢ LÀ CẤM

Đã hơn nửa thế kỷ người Việt Nam quen với các biện pháp “không quản được thì cấm”,“sợ là cấm”. Sợ nghe đài nước ngoài là cấm (tháo cả băng sóng ngắn). Sợ làm giả dấu đỏ thì cấm nhập máy in laser màu. Có người toan tính cấm cả cả internet lẫn mạng xã hội.

Bất cứ hiện tượng gì cũng có hai mặt. Không hiểu đúng quy luật phát phát triển của tự nhiên, không nắm được tính biện chứng của sự việc – thì mọi sự cấm đoán không chỉ thất bại mà trở thành rào cản của tiến bộ, để cuối cùng bị tiến bộ loại bỏ.

Từ ngàn xưa, về cơ bản, sự dạy và học xa lạ với buôn bán. Nay lấy sự dạy học thêm làm nghề kinh doanh đặc biệt, có điều kiện với mục đích để hạn chế sự dạy thêm, học thêm – một biểu hiện của sự cấm, thì thật ngỡ ngàng.

2. HỌC THÊM, DẠY THÊM LÀ NHU CẦU KHÁCH QUAN

Ai cũng phải mở rộng kiến thức. Vì thế không ngừng học thêm. Có người học thêm thì có người dạy thêm. Học thêm, dạy thêm là nhu cầu khách quan. Không thể cấm. Không thể loại bỏ.

Vì thế từ xưa, người đi học phải tìm học hết trường này sang trường khác, học hết sách này sang sách khác, học hết thầy này sang thầy khác. Tìm thêm sách hay mà học. Tìm thêm trường tốt mà học. Tìm thêm thầy giỏi mà học. “Tầm sư học đạo” đã trở thành một phương châm hiển nhiên của sự học và sự dạy. Nhờ khát khao học thêm là một nhu cầu tất yếu mà xuất hiện các trường học danh tiếng, các bộ sách danh tiếng và những người thầy danh tiếng. Và hệ quả là xuất hiện những học trò xuất sắc với tài năng lỗi lạc làm thay đổi xã hội, có các phát minh sáng chế vĩ đại đưa đến những tiến bộ vượt bậc cho nhân loại. Thí dụ thì rất nhiều. Chỉ điểm qua một số trường hợp.

Ở nước ta những người thầy nổi danh như Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Trần Ích Phát, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trương Văn Hiến … đều có nhiều học trò xuất sắc theo học. Trong đó thầy Trần Ích Phát có đến 74 học trò đỗ tiến sĩ (3 người là trạng nguyên), thầy Trương Văn Hiến có 3 học trò là hoàng đế và vương là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.

Ở bên tầu xa xưa, Khổng Tử có 3000 học trò theo học. Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi tìm đến theo học Quỷ Cốc tiên sinh.

Ở phương Tây, các nhà bác học vĩ đại gần đây như Henri Poincaré, Neils Bohr, Albert Einstein, Max Planck, Dmitri Mendeleev, Marie Curie, Ivan Pavlov, Kurchatov, Cergei Korolev, … nổi danh đều nhờ được theo học thầy giỏi, làm việc nơi có nhiều người giỏi, và đều có nhiều học trò giỏi.

Trong điều kiện cạnh tranh việc làm trên toàn cầu mỗi ngày một khốc liệt như trong thời đại ngày nay, thì phải học thêm mới có cơ hội tranh dành được việc làm. Không phải cấm đoán học thêm, mà ngược lại phải khuyến khích học thêm. Vậy học thêm như thế nào? Và trường hợp nào thì phải cấm học thêm, dạy thêm?

3. CẤM DẠY THÊM TRONG TRƯỜNG HỢP NÀO?

Giáo dục Việt Nam hiện nay đang đối mặt với tình trạng trong đó tồn tại các trường hợp mà sự học thêm và dạy thêm gây ra hậu quả tai hại. Không phải bản chất của sự học thêm và dạy thêm có hại mà cách thức tiến hành sự học thêm dạy thêm có hại. Vì thế phải định nghĩa và khoanh vùng cách thức học thêm và dạy thêm có hại này. Chứ không phải vì những trường hợp này mà cấm đoán sự học thêm và dạy thêm trong toàn ngành giáo dục. Xin chỉ ra vài trường hợp mà dạy thêm mang đến hậu quả có hại.

1. Dạy thêm chỉ vì mục đích để giáo viên có thêm thu nhập.

2. Dạy thêm vì lợi ích nhóm.

3. Dạy thêm dẫn đến xếp hạng sai năng lực học sinh và kéo theo các hệ quả xấu.

4. Dạy thêm đưa đến sự lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc của một bộ phận học sinh và của toàn xã hội.

5. Dạy thêm làm lệch hướng mục đích giáo dục và làm lựa chọn sai nghề nghiệp.

4. “GIẤY PHÉP KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN” CÓ GIÚP CHẤM DỨT TÌNH TRẠNG DẠY THÊM CÓ HẠI?

Những trường hợp dạy thêm trong mục 3 vừa nêu tạm gọi chung là các trường hợp dạy thêm có hại. Vậy thì đưa dạy thêm vào danh mục “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” có giúp chấm dứt được các trường hợp dạy thêm có hại? Câu trả lời dứt khoát là không. “Ngành nghề kinh doanh có điều kiện” hoàn toàn không chống được các trường hợp dạy thêm có hại.

Phải nhìn vào thực tế, ở Việt Nam hiện nay, “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” nào cũng có thể lấy được giấy phép kinh doanh. Vấn đề là mất bao nhiêu tiền, bao nhiêu quan hệ và bao nhiêu công sức. Ở phương diện này thì đưa dạy thêm vào “ngành nghề kinh doanh có điều kiện” nhất định sẽ thúc đẩy tiêu cực trong cấp phép kinh doanh, trong thanh tra dạy thêm. Nhưng tai hại hơn, nó sẽ cản trở sự học thêm và dạy thêm chính đáng trên toàn quốc.

Cũng cần nhắc lại trường hợp buôn thuốc giả ở Bộ Y tế để thấy được “giấy phép kinh doanh có điều kiện “ không phải là phép màu.

5. HỌC THÊM NHƯ THẾ NÀO?

Chương trình giáo dục phổ thông, tuy nói là phổ thông, nhưng lại phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu kiến thức khác nhau. Để đáp ứng được các nhu cầu kiến thức khác nhau thì phải có chương trình khác nhau. Học thêm chính là cách thức thay đổi chương trình để đáp ứng nhu cầu kiến thức khác nhau.

Lấy thí dụ về môn toán. Vai trò quan trọng của toán không phải bàn cãi. Ai cũng cần đến toán. Nhưng mức độ cần toán của mỗi người cho cuộc đời mình lại khác nhau. Thế mà từ lớp 1 đến lớp 12 chúng ta dạy toán cho mọi học sinh theo một chương trình. Chấm điểm và đánh giá theo một thang bậc như nhau. Thi tốt nghiệp THPT quốc gia cùng một đề. Đó là tai biến (catastrophe).

Người đi theo nghiệp văn, thanh nhạc, thể thao… không cần đến những phương trình lượng giác ngoằn nghèo, cả đời không bao giờ dùng đến. Nếu khi cần đến thì cũng dễ dàng có được sau vài lần chạm tay trên máy tính bảng. Thế mà bắt những học sinh cả đời sau này không cần dùng đến các phương trình lượng giác phải hao tâm tổn lực vì nó. Một sự lãng phí trí óc, thời gian, tiền bạc to lớn xót xa.

Tai hoạ không chỉ vậy. Cùng một đề toán thì em học sinh theo nghiệp toán được điểm 10, em học sinh không cần toán bị điểm 1. Phụ huynh của em học sinh bị điểm 1 toán có cảm giác con mình không có khả năng học tập hay lười học – vừa thất vọng, quát mắng con và bắt con học thêm. Học thêm không cần thiết bắt đầu từ đó. Bản thân em học sinh không thích toán, không cần toán, lại tự ti về năng lực toán của mình, càng học thêm càng chán toán. Tương tự như vậy là đối với các môn học khác.

Cùng một chương trình, cùng một mặt bằng thang điểm, cùng thước đo, cùng một đề thi cho toàn bộ hơn 1 triệu học sinh THPT trên toàn quốc, với hơn 1 triệu nghề nghiệp và số phận cùng năng lực khác nhau là một sai lầm lớn.

Vậy giải quyết vấn đề vừa nêu như thế nào?

Người thầy giỏi là mỗi học sinh một giáo án, đề thi riêng, thang điểm đánh giá riêng. Điều này không xa lạ với những ai đào tạo các ngành chuyên nghiệp, trong đó có khoa học, thể thao, thanh nhạc… Cùng được điểm 7 môn toán, nhưng chương trình dạy toán và đề thi toán của em theo nghiệp toán khác với em theo nghiệp thanh nhạc.

Đó là cách tiếp cận khoa học. Các em toán và thanh nhạc ở khác đấu trường, và không cạnh tranh với nhau. Cách dạy học và thi cử của chúng ta hiện nay biến toàn bộ học sinh phổ thông trên toàn quốc cùng cạnh tranh nhau trong một đấu trường. Điều này là không công bằng, không khoa học và dẫn đến sai lầm trầm trọng trong đánh giá năng lực, dẫn đến sai lầm trong xác định nghề nghiệp.

Từ xa xưa cha ông đã dạy: “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Nghề nào cũng phải “nhà nghề”,“chuyên nghiệp”. Chuyên nghiệp từ bé. Bởi thế, bắt đầu từ trung học cơ sở, một bộ phận học sinh phải được đăng ký học thêm một số môn tự chọn theo sở trường. Còn từ trung học phổ thông thì hoàn toàn phải chia theo sở trường.

Quay lại vấn đề dạy thêm. Ở nhiều nước tiên tiến, ngay từ trung học cơ sở, các em thích học toán được đăng ký học với thầy giáo toán riêng. Việc học toán của các em thích học toán không ảnh hưởng đến toàn bộ số học sinh còn lại, bao gồm cả xếp hạng năng lực học sinh trong lớp. Đến trung học phổ thông, khi các thầy giáo toán không còn đủ khả năng truyền đạt kiến thức, các em thích học toán có thể đăng ký học thêm toán ở các chương trình toán của các đại học. Bởi thế có các em chưa tốt nghiệp THPT mà kiến thức toán thì đã tốt nghiệp đại học. Không phải bây giờ mà cả thế kỷ trước đã như vậy. Với toán có rất nhiều ví dụ, như trường hợp của nhà toán học Gelfand của Liên Xô trước đây chẳng hạn.

Các môn học khác cũng tương tự. Đó là cách dạy thêm. Đó là cách dạy chuyên. Chứ không phải cứ tập trung thành trường chuyên mới là dạy chuyên. Bởi thế, ở nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, tuy không thấy trường chuyên tập trung mà lại có trường chuyên khắp mọi nơi, không dạy thêm mà được dạy thêm mọi lúc.

6. BIỆN PHÁP NÀO ĐỂ CHỐNG CÁC TRƯỜNG HỢP DẠY THÊM CÓ HẠI?

Từ cách dạy thêm nêu ở mục 5 cũng đã có thể nhìn thấy một số biện pháp chống các trường hợp dạy thêm có hại. Ngoài ra, còn các biện pháp khác nữa. Rất muốn đề xuất thêm các biện pháp chống các trường hợp dạy thêm có hại, nhưng e rằng lại thêm một lần thất vọng, nên khất lại chờ một dịp phù hợp hơn.

Bạn chỉ có thể đưa ra tư vấn cho người thực sự muốn nghe bạn tư vấn. Điều đó vẫn chưa đủ. Bạn chỉ đưa ra tư vấn cho ai đánh giá được giá trị tư vấn của bạn thì điều bạn tư vấn mới có ý nghĩa. Các bậc minh chủ có nhiều mưu sĩ giỏi là bởi vì họ giỏi hơn các mưu sĩ.

Tục ngữ Việt Nam có câu “ngứa một nơi, gãi một chốn”. “Đưa dạy thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện” không phải là giải pháp để chống lại các trường hợp dạy thêm có hại. Giáo dục Việt Nam mỗi ngày càng thêm nhiều bệnh trầm trọng, là bởi suốt mấy chục năm qua chỉ chữa bệnh ngoài da mà không chữa bệnh tâm can.

N.N.C.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Giáo dục. Bookmark the permalink.