Bàn về mô hình phát triển kinh tế Việt Nam cho tương lai (Phần 1)


Bùi Mạnh Thành

Năm 2020 là năm trăng mờ gió thảm, đại dịch Covid 19 nổ ra, phơi bày mọi sự yếu kém của mô hình quản trị toàn cầu. Hội đồng bảo an với tư cách là trung tâm quyền lực thế giới, không thực hiện được đầy đủ chức năng, vai trò duy trì đảm bảo hòa bình, an ninh thế giới, giải quyết các cuộc xung đột, đứng ra điều phối giữa các quốc gia vượt qua đại dịch. Không những vậy, mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày càng gia tăng, báo hiệu một chu kỳ khủng hoảng mới của trật tự thế giới, mang dáng dấp như thời kỳ khủng hoảng chính trị ở Châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19.

Việt Nam sau 35 năm tiến hành Đổi mới, áp dụng thành công mô hình phát triển Đông Á, mang lại nhiều chuyển biến tích cực và thành tựu đáng tự hào trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Nền kinh tế có sự chuyển biến rõ nét, từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phấn, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Đời sống của người dân liên tục nâng cao, an sinh xã hội được đảm bảo, vị thế, sức mạnh quốc gia được giữ vững.

Sau Chiến tranh Lạnh, thế giới đang trải qua thời kỳ chuyển giao mới về quyền lực chính trị và phương thức quản trị toàn cầu. Mô hình trật tự đơn cực đã và đang bộc lộ nhiều điểm bất cập, không phù hợp với những diễn biến chính trị thế giới, một mô hình mới đang xuất hiện, nổi bật là vai trò của các cường quốc mới nổi, ngày càng thể hiện sức mạnh, vị thế và tiếng nói trên trường quốc tế.

Hai đặc điểm nổi bật của trật tự thế giới trong giai đoạn hiện nay là các quốc gia có xu hướng đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích quốc tế và Hoa Kỳ không còn đủ sức mạnh, vị thế, tham vọng, uy tín quốc gia để đảm bảo, duy trì hòa bình, an ninh thế giới. Thế giới cần một luật chơi mới, nhiều thiết chế, khung ràng buộc pháp lý mới để điều tiết xung đột, quan hệ quốc tế và lợi ích giữa các quốc gia.

Trong bối cảnh lịch sử hiện tại, mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam đang bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp, không tạo tiền đề, động lực để nền kinh tế có chu kỳ tăng trưởng mới, phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Yêu cầu của lịch sử và thách thức của thời đại đòi hỏi Việt Nam cần phải đề ra chương trình “Đổi mới 2.0”, tiếp thu, vận dụng những thành tựu trong công cuộc Đổi mới từ Đại hội 6, đề ra nhiều cải cách thiết thực, mạnh mẽ và đột phá hơn nữa để nền kinh tế Việt Nam có động lực và sức mạnh vượt qua khó khăn, xây dựng được một mô hình kinh tế mới, phù hợp với xu thế trật tự thế giới, đảm bảo cho nền kinh tế Việt Nam phát triển ổn định, bền vững và lâu dài.

1. Sự biến đổi của trật tự thế giới

Sau chiến tranh Lạnh, xu thế chủ đạo chi phối sự vận hành và phát triển của thế giới là hòa bình, ổn định và cùng phát triển giữa các quốc gia. Châu Âu mừng rỡ sau khi Liên Xô sụp đổ, hồ hởi đón nhận xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và chính trị. Hoa Kỳ vươn lên trở thành siêu cường độc bá của thế giới ở tất cả các khía cạnh từ kinh tế, chính trị và quân sự.

Về kinh tế, các quốc gia tích cực hợp tác làm ăn, xóa bỏ nhiều hàng rào thuế quan và chế độ bảo hộ mậu dịch, tự do trao đổi buôn bán. Lợi ích quốc tế được nhiều nước đặt trên lợi ích quốc gia, với tầm nhìn về một thế giới đại đồng, cùng phát triển sẽ tác động dội ngược, đem lại hòa bình, thịnh vượng và phát triển cho từng quốc gia thành viên. Trong giai đoạn này, Tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) được thành lập, vòng đàm phán Doha được mở ra, rất nhiều quốc gia chớp được thời cơ lịch sử, vươn lên trở thành cường quốc kinh tế như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazin, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan….

Sau hơn 30 năm, cùng với những biến chuyển của lịch sử, nhân loại đang bước vào một trật tự mới với những đặc điểm chủ đạo như sau :

– Một trật tự đơn cực với vai trò trung tâm của Hoa Kỳ không còn, thay vào đó là trật tự đa cực, thể hiện ở sự vươn lên các cường quốc, mong muốn tìm lại ánh hào quang xưa, gây dựng tiếng nói và vị thế lớn hơn trong việc duy trì hòa bình, an ninh thế giới, đem lại lợi ích cho đất nước.

– Hai là chủ nghĩa dân tộc lên cao, kết tinh vào chính sách đối ngoại của từng quốc gia, đặc biệt là các cường quốc. Hậu quả lớn nhất là những thiết chế vốn được thành lập trong quá khứ để duy trì hòa bình, an ninh thế giới dần không phát huy tốt hiệu quả, các cường quốc có xu hướng phớt lờ, bỏ qua những luật lệ của thế giới. Một viễn cảnh bất ổn, xung đột và tranh chấp giữa các quốc gia, các khu vực sẽ ngày càng gia tăng.

– Ba là về kinh tế, xu hướng “toàn cầu hóa” sẽ không còn phù hợp trong giao dịch thương mại toàn cầu. Thay vào đó là xu hướng “khu vực hóa” khi các quốc gia có chung lợi ích, hệ giá trị sẽ lập thành những khu vực thương mại tự do riêng, với những ưu đãi giành riêng cho thành viên. Hậu quả là các quốc gia không phải thành viên trong “khu vực” sẽ chịu nhiều thiệt hại và khó khăn trong việc tiếp cận vào thị trường.

Trong xu thế “khu vực hoá” nổi lên là sự cạnh tranh gay gắt giữa hai siêu cường kinh tế là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Đây là hai quốc gia duy nhất có đủ sức tác động làm thay đổi luật chơi thương mại toàn cầu. Do đó bất kỳ một sự chuyển dịch về tầm nhìn phát triển kinh tế của Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ đều có tác động rất sâu rộng, ảnh hưởng đến mô hình phát triển kinh tế các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia lệ thuộc mạnh mẽ vào thương mại như Việt Nam.

– Bốn là sự vận động của trật tự thế giới hiện tại rất khác so với thời kỳ bắt đầu hình thành trật tự đơn cực. Kết thúc Chiến tranh Lạnh, thế giới chuyển từ trật tự hai cực sang trật tự đơn cực, nhưng các tổ chức, thiết chế được xây dựng với mong muốn duy trì hòa bình, an ninh thế giới như Liên Hợp Quốc (đặc biệt là Hội đồng bảo an), WTO, NATO, G7….ít nhiều vẫn phát huy được tác dụng và sức mạnh.

Hiện tại, trong xu thế trật tự toàn cầu mới đặt ra thách thức vô cùng lớn đối với an ninh toàn cầu khi nhiều thiết chế cũ, được hình thành từ sau Thế chiến 2 đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp, thiếu cơ chế phối hợp, sự ràng buộc về pháp lý, làm giảm tính hiệu lực, hiệu quả khi đưa ra những quyết sách quan trọng về hoà bình, ổn định, an ninh của toàn cầu.

– Năm là viễn cảnh tranh chấp, xung đột vũ trang, chiến tranh khu vực, bất ổn chính trị…sẽ ngày càng lan rộng ở trên thế giới, đặc biệt ở khu vực vốn nhạy cảm về lịch sử như Trung Đông, Bắc Phi, Nam Âu, vùng Kavkaz, Nam Á, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương….Nguyên nhân vì trong giai đoạn chuyển tiếp, thế giới chưa hình thành, xây dựng được khung pháp lý, thiết chế để ràng buộc lợi ích các quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định khu vực. Thế giới sẽ vận động theo quyền lợi của các nước lớn.

– Sáu là trong cuộc cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn trong thế kỷ 21, thế chân vạc giữa ba trung tâm quyền lực của thế giới là Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga sẽ được thiết lập. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế nhất định và những khó khăn trong việc cạnh tranh, giành ảnh hưởng ở những khu vực, điểm nóng trên thế giới.

Trong đó nổi bật hơn cả là cuộc canh tranh quyền lực ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, một khu vực được coi là trung tâm quyền lực của thế giới trong thế kỷ 21. Nơi đây sẽ chứng kiến cuộc cạnh tranh giữa một bên là Hoa Kỳ – siêu cường hiện tại và duy nhất của thế giới với một bên là Trung Quốc, siêu cường kinh tế đang trỗi dậy, ngày càng có tham vọng bành trướng ảnh hưởng, mong muốn giành ảnh hưởng một nửa Thái Bình Dương.

Trong xu hướng chuyển động của trật tự thế giới nửa đầu thế kỷ 21, có hai kịch bản có thể xảy ra:

Đầu tiên đó là viễn cảnh một cuộc chiến tranh có thể xảy ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Trung Quốc hiện tại đang đi theo còn đường đúng như Đế quốc Nhật Bản khi xưa từng đi và rất sợ lặp lại bi kịch của Nhật Bản từng gặp khi bị Hoa Kỳ và đồng minh bao vây cấm vận. Do đó, Trung Quốc thực hiện chiến lược “Vành đai và con đường”, mở ra những hướng đi mới bước ra thế giới, tránh trường hợp lệ thuộc quá nhiều vào con đường biển đi qua eo biển Malacca.

Hoa Kỳ hiện tại là siêu cường duy nhất của thế giới, tuy nhiên về sức mạnh, tầm ảnh hưởng với thế giới, các nước đồng minh không thể bằng thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Để đối phó với một Trung Quốc đang lên, các đời Tổng thống gần đầy là Donald Trump và Joe Biden đã xác định một cách rõ ràng về tầm nhìn an ninh quốc gia khi nhận định Trung Quốc là đối thủ nguy hiểm nhất. Hoa Kỳ cùng với các nước đồng minh thành lập Nhóm Bộ Tứ giữa Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ, liên minh AUKUS giữa Hoa Kỳ, Anh và Úc.

Tất cả đặt ra bài toán an ninh đặc biệt nghiêm trọng ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, bất cứ một xung đột, mâu thuẫn một khi được đẩy lên cao, chiếc bẫy Thucydides sẽ sập xuống, một cuộc chiến tranh như cách Nhật Bản khơi mào khi tấn công vào Trân Châu Cảng (1941) sẽ xảy ra và hậu quả không thể lường trước.

Đây là một kịch bản không hề mong muốn, tuy nhiên trong quan hệ giữa các siêu cường hiện tại, kịch bản này sẽ xảy ra xác xuất khá thấp. Xu thế trật tự thế giới hiện tại, các quốc gia luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên hết. Một cuộc chiến tranh, xung đột quân sự sẽ làm cho các quốc gia trả một cái giá rất đắt.

Thay vào đó, một kịch bản theo tôi là hợp lý và dễ xảy ra nhất là trật tự thế giới hiện tại sẽ vận động theo đúng những gì các cường quốc Châu Âu phân chia ảnh hưởng sau khi cuộc chiến chống lại Napoleon kết thúc (1814 – 1815). Khi đó 5 cường quốc Châu Âu là Anh, Pháp, Phổ, Nga và Áo sẽ cùng nhau ngồi lại, đàm phán, xây dựng thế ổn định “mong manh”, một nền hoà bình tương đối ở châu Âu. Lịch sử gọi đó là “Buổi hoà nhạc Châu Âu”.

Trật tự thế giới hiện tại rất có thể sẽ vận động theo kịch bản đó, một vài cường quốc sẽ tiếp tục gia tăng ảnh hưởng, gây dựng tiếng nói để có thể có một ghế trong “Buổi hoà nhạc thế kỷ 21” và cùng nhau thiết lập một thế hoà bình “tương đối” ổn định của thế giới.

2. Sự kết thúc của xu hướng toàn cầu hoá

Ý tưởng về một thế giới toàn cầu hóa được xuất hiện từ Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944, đề xuất thành lập Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các quốc gia. Tuy nhiên, việc Thượng viên Hoa kỳ không phê chuẩn Hiến chương ITO là gáo nước lạnh đầu tiên dội vào tham vọng xây dựng một thế giới toàn cầu hóa.

Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, trong tâm thế vui mừng của lịch sử, học giả Francis Fukuyama nhận định “Sự cáo chung của lịch sử”, ông khẳng định “thể chế dân chủ tự do” và “nền kinh tế thị trường tự do” là xu thế, trật tự và mô hình cuối cùng của kinh tế, chính trị toàn cầu. Tinh thần hồ hởi của lịch sử dẫn đến sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 1995.

Mục tiêu cao nhất của WTO là xây dựng một thế giới toàn cầu hóa với việc giảm tối đa hàng rào thuế quan và hạn ngạch thương mại, các quốc gia tự do trao đổi buôn bán, với mong muốn xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đặc biệt là những nước đang và kém phát triển.

Tuy nhiên, trải qua gần 30 năm, cùng với sự phát triển, vươn lên các cường quốc, sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo giữa các quốc gia ngày càng gia tăng… đã chứng minh cho thấy “thể chế dân chủ tự do” chưa hẳn là mô hình chính trị toàn cầu, phù hợp với tất cả các quốc gia, khu vực trên thế giới.

Thất bại của vòng đàm phán Doha là gáo nước lạnh thứ hai dội vào tham vọng xây dựng một thế giới toàn cầu hóa, đánh dấu sự thất bại trong việc hoạch định tầm nhìn của WTO.

Kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh tại Osaka (2019), các thành viên G20 nhất trí thống nhất phải tiến hành cải cách Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), với mục tiêu xây dựng một “thị trường mở và sân chơi công bằng cho mọi quốc gia”.

Trong tuyên bố chung tại lễ bế mạc, các nhà lãnh đạo G20 đưa ra tuyên bố mạnh mẽ, ủng hộ nguyên tắc cơ bản xây dựng “hệ thống thương mại và đầu tư tự do, nhằm đảm bảo thương mại tự do, công bằng, không phân biệt đối xử, minh bạch, có thể đoán trước và ổn định” đồng thời nhất trí sử dụng “mọi công cụ chính sách” để hỗ trợ nền kinh tế toàn cầu đối mặt với những nguy cơ xấu và đạt tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững, cân bằng và toàn diện.

2.1 Cải cách WTO

Trải qua 25 năm hoạt động, WTO đã đánh mất vai trò, trách nhiệm và sức mạnh trong việc điều phối, giải quyết tranh chấp thương mại toàn cầu, đặc biệt là trong cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nó đặt ra một tiền lệ xấu cho các quốc gia khác trên thế giới, sẵn sàng lấy lý do “bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc”, xé bỏ những ràng buộc pháp lý và chuẩn mực thương mại đã từng cam kết khi gia nhập WTO.

Ba chức năng chính của WTO đang bộc lộ nhiều thiếu sót, không phù hợp với xu thế kinh tế và chính trị toàn cầu:

– Một là về cơ chế phân loại chưa rõ ràng: Từ ngày mới thành lập, hệ thống phân loại thành viên của WTO khá đơn giản, giữa một bên là nước phát triển và một bên là phần còn lại. Để tạo sân chơi công bằng và thúc đẩy kinh tế giữa các quốc gia, WTO đưa ra nhiều ưu đãi cho các nước đang và kém phát triển khi bước vào sân chơi thương mại toàn cầu, với mục tiêu giảm tối đa hạn ngạch và hàng rào thuế quan để hàng hoá và dịch vụ các nước đang và kém phát triển tiếp cận vào thị trường các nước phát triển, mục tiêu giúp cho các nước kém và đang phát triển có cơ hội tăng trưởng kinh tế, giảm đói nghèo, thất nghiệp.

Tuy nhiên, hiện nay hệ thống phân loại này đã bộc lộ sự không phù hợp, 2/3 các nước trong 164 nước thành viên WTO vẫn coi mình là nước đang phát triển để tiếp tục nhận sự ưu đãi. Đặc biệt là có đến 10/20 quốc gia là thành viên của G20 vẫn coi mình là nước đang phát triển.

Lý do chính nằm ở nguyên tắc phân loại của WTO không rõ ràng, các thành viên có quyền “tự chọn” vị thế của mình, dẫn đến hậu quả nhiều nước có nền kinh tế vào loại lớn trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ… nhưng vẫn coi mình là nước đang phát triển để nhận nhiều ưu đãi và đóng góp ít nghĩa vụ.

Đối với Trung Quốc khi gia nhập vào năm 2001, WTO chấp nhận Trung Quốc là nước có nền kinh tế phi thị trường trong vòng 15 năm với nhiều ưu đãi về thuế quan, hạng ngạch, luật lệ. Tuy nhiên đến năm 2016, Trung Quốc thể hiện hai bộ mặt, một bộ mặt luôn kêu gọi thế giới công nhận là nước có nền kinh tế thị trường để tránh bị bất lợi trong các cuộc tranh chấp thương mại, một bộ mặt tiếp tục ưu đãi doanh nghiệp nhà nước, cưỡng ép chuyển giao công nghệ và ăn cắp bản quyền trí tuệ từ các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào thị trường Trung Quốc.

– Hai là chức năng đàm phán bắt đầu thể hiện sự khủng hoảng. Bản chất hoạt động của WTO dựa trên sự đồng thuận hoàn toàn của 164 thành viên. Tuy nhiên, thế giới đã và đang bước sang trật tự mới, kéo theo đó là nhiều quốc gia lui về chủ nghĩa bảo hộ, lấy ưu tiên lợi ích quốc gia trên hết. Xu thế nhiều quốc gia, nhóm quốc gia đang thiết lập các khu vực thương mại tự do riêng biệt đang dần rõ nét, dần phủ nhận những quy định từ WTO.

Yêu cầu về sự đồng thuận cũng đặt ra bài toán khó khi các nước WTO tiến hành các bước quan trọng để xây dựng một luật lệ thương mại mới, chi phối và vận hành thương mại toàn cầu trong trật tự thế giới mới.

– Ba là chức năng phán xử, giải quyết các tranh chấp thương mại toàn cầu đang bộc lộ sự thất bại. Nguyên nhân bắt nguồn từ sự lỗi thời của WTO và Tổng thống Trump lên nắm quyền mong muốn viết lại luật chơi thương mại toàn cầu. Tổng thống Trump nhiều lần cảnh báo, nếu WTO không cải tổ thì Hoa Kỳ sẽ rút khỏi WTO.

Hiện thực hoá tuyên bố, Tổng thống Trump quyết định không bổ nhiệm Thẩm phán Hoa Kỳ vào Cơ quan phúc thẩm của WTO (đây là cơ quan có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp thương mại trên thế giới).

Về nguyên tắc thì Cơ quan phúc thẩm có 7 thành viên, nhưng hiện tại chỉ còn lại 1 thành viên đến từ Trung Quốc, do Hoa Kỳ và Ấn Độ chưa bổ nhiệm người thay thế. Hậu quả là các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia trong WTO không có một cơ quan có nhiệm vụ làm trung gian giải quyết, điều hòa tranh chấp và thương mại toàn cầu sẽ trôi vào luật lệ “cá lớn nuốt cá bé” trong xu thế các quốc gia luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích quốc tế.

Hậu quả nhãn tiền là WTO sẽ trôi vào thoái trào, yêu cầu cấp thiết là cải tổ một cách toàn diện hoặc WTO sẽ mất vai trò lịch sử.

2.2 Xu thế khu vực hóa thay thế xu thế toàn cầu hóa

Thất bại của Vòng đàm phán Doha đã tạo điều kiện thúc đẩy một xu hướng “khu vực hóa” trong quan hệ thương mại, thúc đẩy các quốc gia, nhóm quốc gia xây dựng các hiệp định thương mại tự do cho từng nhóm khu vực như Hiệp định thương mại tự do xuyên Đại Tây Dương (TTIP) giữa Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU), Hiệp định đối tác và toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (RCEP)….

Về cơ bản, ba hiệp định trên thành lập để khỏa lấp sự thấp bại của vòng đàm phán Doha khi khó có thể thuyết phục được tất cả các nước trong WTO đồng ý xây dựng một khu vực thương mại tự do hóa toàn cầu.

Tuy nhiên, sự kiện Tổng thống Trump lên nắm quyền và viết lại luật chơi thương mại toàn cầu đã làm thay đổi tất cả, từ tham vọng toàn cầu hóa đến tham vọng xây dựng một khu vực hóa có tầm bao quát như TTIP hay RCEP. Tổng thống Trump với khẩu hiệu “Hoa Kỳ trên hết” đã nhiều lần cảnh báo các quốc gia trên thế giới lợi dụng, chèn ép, giành công ăn việc làm của người dân Mỹ.

Nhìn lại quá trình 4 năm thực hiện chính sách thương mại, Tổng thống Trump không phải là người có tư tưởng ủng hộ bảo hộ mậu dịch, chống thương mại tự do. Tổng thống Trump mong muốn xây dựng những thỏa thuận thương mại, khu vực thương mại có lợi hơn cho Hoa Kỳ.

Thành công trong việc thuyết phục Canada, Mehico, Hàn Quốc và Nhật Bản ký kết Hiệp định thương mại tự do tạo nên sự tự tin và sức mạnh cho Tổng thống Trump tiếp tục con đường viết lại luật chơi thương mại toàn cầu.

Tháng 2/2020, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đã phát đi thông báo cho biết Chính phủ Hoa kỳ quyết định thu hẹp danh sách các quốc gia kém phát triển và đang phát triển. Các nước bị Hoa Kỳ loại khỏi danh sách các nước đang phát triển gồm: Albania, Argentina, Armenia, Brazil, Bulgaria, Trung Quốc, Colombia, Costa Rica, Georgia, Ấn Độ, Indonesia, Kazakhstan, Cộng hòa Kyrgyz, Malaysia, Moldova, Montenegro, Bắc Macedonia, Romania, Singapore, Nam Phi, Hàn Quốc, Thái Lan, Ukraine và Việt Nam.

Động thái của Hoa Kỳ cho thấy sự thất vọng của Tổng thống Trump trong cách điều hành và hoạt động của WTO khi hai cường quốc kinh tế là Trung Quốc và Ấn Độ vẫn xếp là quốc gia đang phát triển. Việc xếp loại này đưa đến viễn cảnh, Hoa Kỳ sẽ không giải quyết các thanh chấp thương mại theo luật lệ của WTO, thay vào đó là quy tắc của Hoa Kỳ.

Hậu quả rất nhiều quốc gia, như Việt Nam chẳng hạn, muốn tiếp cận thị trường, ký kết hiệp FTA với Hoa Kỳ thì chấp nhận vị thế là nước phát triển và chịu nhiều nhượng bộ và thiệt hại.

Đối với Tổng thống Joe Biden, trong tầm nhìn về chính sách đưa Hoa Kỳ trở lại vị thế dẫn đầu, ông mong muốn đưa nền kinh tế Mỹ hội nhập với thị trường toàn cầu. Nhưng ông cũng cảnh báo, Hoa Kỳ chỉ tham gia các thỏa thuận thương mại nếu nền kinh tế Mỹ đủ sức cạnh tranh vào thị trường toàn cầu và các quốc gia đối tác đáp ứng được hai yêu cầu về chế độ công đoàn và môi trường.

Trong xu thế mới dưới thời Tổng thống Biden, xu hướng Hoa Kỳ sẽ ghìm quan hệ thương mại vào lợi ích chính trị quốc gia. Các quốc gia là đồng minh ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á…sẽ thuận lợi hơn trong tiếp cận vào thị trường Hoa Kỳ.

Với Trung Quốc, câu chuyện lại khác, mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là mâu thuẫn giữa một bên là siêu cường số 1 và một bên là cường quốc thứ 2 đang có tham vọng lật đổ vị thế của Hoa Kỳ. Cuộc chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không chỉ là cuộc chiến về thương mai, đó là cuộc chiến về vị thế quốc gia. Quá trình đàm phán FTA không đơn thuần ở khía cạnh thương mại, lan sang cả vấn đề nhân quyền, chính trị và an ninh quốc gia.

Viễn cảnh về “khu vực hóa” đang đặt ra nhiều thách thức cho nhiều quốc gia tham dự vào sân chơi thương mại toàn cầu. Với những nước có nền kinh tế đa dạng, ít phụ thuộc vào xuất khẩu thì tỷ lệ thiệt hại sẽ giảm, nhưng những quốc gia lệ thuộc vào xuất khẩu, lấy xuất khẩu là động lực tăng trưởng kinh tế thì đây là một thách thức rất lớn, đặc biệt là khi Hoa Kỳ cố gắng viết lại luật chơi và kết hợp hai vấn đề thương mại vào chính trị và an ninh.

(Còn nữa)

B.M.T.

Nguồn: Nghiên cứu Quốc tế

This entry was posted in Kinh tế Việt Nam. Bookmark the permalink.