Góc nhìn khác về tầng lớp trí thức Việt Nam hôm nay (*)


Quách Hạo Nhiên

Kỳ 1: Trí Thức Và Cái Bẫy “Phản Biện Xã Hội”

Lâu nay, chúng ta đã từng nghe nói, xã hội Việt Nam đang bị khủng hoảng các giá trị nền tảng, xuống cấp và suy đồi về đạo đức, văn hóa. Về chuyện này, có lẽ cũng không phải bàn cãi vì chính các vị đại biểu quốc hội nước nhà cũng từng thừa nhận trong các cuộc họp khá nhiều lần. Vấn đề là nguyên nhân của thực trạng này là do đâu? Vì sao nên nỗi?

Trước hết, có lẽ cũng nên thành thật với nhau rằng, cốt yếu và sâu xa nhất của thực trạng này bắt nguồn từ “thượng tầng kiến trúc”, từ giới lãnh đạo cầm quyền mà ra. Bởi “thượng bất chính hạ tắc loạn”. Hay nói khác đi, những kẻ đang nắm trọn quyền điều hành đất nước trong tay nhưng không những bất tài mà tha hóa, suy đồi thì làm sao mang lại sự phồn thịnh, vững bền cho quốc gia, dân tộc được.

Dẫu vậy, có câu “nhân dân nào chính quyền đó”. Dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng không thể phủ nhận các quan chức, lãnh đạo từ cấp thấp đến cấp cao trong bộ máy công quyền vốn từ nhân dân mà ra. Nếu chỉ xét ở phương diện trình độ học vấn thông qua các mảnh bằng thì những người này đương nhiên cũng thuộc tầng lớp những trí thức trong xã hội. Đa phần họ cũng được đào tạo dưới mái trường XHCN, sau nữa là rèn luyện trong “môi trường rất đặc thù” – các lớp “bồi dưỡng chính trị” (từ sơ cấp đến cao cấp) dựa nền tảng ý thức hệ cộng sản theo “quy trình” quy hoạch và lựa chọn nhân sự rất “chặt chẽ” và “bài bản” của “đảng ta”.

Nhìn ở phương diện này, có thể nói sự suy đồi và xuống cấp về đạo đức, văn hóa trong xã hội Việt Nam hôm nay, dù có biện minh thế nào thì tầng lớp trí thức nước nhà cũng khó mà thoái thác trách nhiệm. Bởi “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” huống hồ là trí thức.

Tiếc thay, quan sát những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam thời gian gần đây, nhìn lại những cuộc trao đổi, bàn thảo xung quanh đề tài về tầng lớp trí thức ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy, đang có một sự cố tình né tránh trách nhiệm này.

Không những vậy, không ít người còn đổ hết cho thể chế và các quan chức, lãnh đạo trong bộ máy chính quyền như một cách để chứng minh bản thân mình trong sạch; hoặc chẳng liên quan gì đến sự tụt hậu, suy đồi của xã hội và đất nước hôm nay dù rằng chính họ chứ không phải ai khác từng một thời là yếu nhân trong bộ máy chính quyền, từng thay mặt thể chế trực tiếp điều hành các phần việc trong từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể.

Đáng nói hơn, sự đổ lỗi này lại rơi đúng ngay tầng lớp trí thức trong vai trò những nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà giáo, nhà báo…- những “cây đa, cây đề” trên tay vẫn đang cầm sổ hưu và thẻ đảng. Và lạ thay, khi thì thấy họ mắng “đảng ta” không tiếc lời, khi thì tự hào khoe có con cháu hay học trò mình đang giữ chức vụ, lãnh đạo rất cao trong bộ máy công quyền?

Ở giác độ văn hóa, cá nhân tôi cho đây là một vấn đề, một hiện trạng rất nguy hiểm, cần được lưu tâm và mổ xẻ. Phải chăng đây chính là một “thói hư tật xấu” của người Việt – cụ thể là tầng lớp trí thức nước nhà hôm nay? Là nguyên nhân làm cho tầng lớp trí thức bị coi thường; tiếng nói phản biện họ hiếm khi được nhà cầm quyền tiếp thu dù các quan chức vẫn luôn miệng nói “trân trọng và lắng nghe”?

“Phản biện xã hội” hay là sự dễ dãi và ảo tưởng để được “phong hàm trí thức”

Gần đây, tôi có đọc được bài viết của nhà văn Tạ Duy Anh trên trang facebook cá nhân của ông. Bài viết có nhan đề “Trí thức và tiếng nói phản biện”[1]. Bài viết này được rất nhiều bè bạn, đồng nghiệp của ông tán dương hết lời. Nội dung chủ yếu của bài viết là khẳng định vai trò của người trí thức bởi họ là “kho trí khôn”, “túi càn khôn”, “mỏ trí tuệ”… của quốc gia dân tộc. Đặc biệt Tạ Duy Anh nhấn mạnh đến tinh thần trách nhiệm, “óc hoài nghi”, “tầm nhìn xa” và tiếng nói phản biện xã hội của người trí thức.

Những điều nhà văn Tạ Duy Anh nói, về cơ bản tôi cũng rất đồng tình. Dẫu vậy, liên quan đến vấn đề phản biện xã hội, quan điểm của Tạ Duy Anh gần như chỉ đề cập và nhấn mạnh đến việc người trí thức phải dám phản biện lại đường lối lãnh đạo của nhà cầm quyền nhất là ở những xã hội với thể chế độc đảng. Trong quan sát của tôi, có thể thấy, suy nghĩ này này không riêng Tạ Duy Anh mà cũng là cách nghĩ, một quan niệm phổ biến trong tầng lớp trí thức ở Việt Nam hôm nay.

Về chuyện này, cá nhân tôi thấy đồng cảm với quan điểm của GS Ngô Bảo Châu trong bài trả lời phỏng vấn hơn 10 năm trước. Còn nhớ, năm 2012, phóng viên báo Tuổi Trẻ cuối tuần đã hỏi GS Ngô Bảo Châu câu hỏi rất giống với quan điểm của nhà văn Tạ Duy Anh bây giờ.

Phóng viên hỏi: “Gần đây phong trào phản biện của giới trí thức ngày càng sôi nổi. Thậm chí người ta còn cho rằng người lao động trí óc sẽ chưa đạt tầm của một trí thức nếu chỉ biết làm công việc chuyên môn của mình mà chưa bộc lộ được năng lực phản biện xã hội. Giáo sư suy nghĩ thế nào về trách nhiệm phản biện xã hội của giới trí thức cũng như vai trò của giới trí thức trong xã hội?”

Giáo sư Ngô Bảo Châu khi ấy đã trả lời:

“Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức”. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi đua để được phong hàm “trí thức”? Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội. Mặt khác, cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng. Những người có học, có tri thức thật ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia việc phản biện xã hội. Học hàm, học vị không thể đảm bảo rằng cái anh nói ra là mặc nhiên đúng. Với thói quen làm việc khoa học của mình, cái mà anh có thể làm là đưa ra những lập luận vững chắc và có tính thuyết phục. [2]

Có thể nói, phản biện xã hội là khái niệm có nội hàm rất rộng. Ở những quốc gia đa đảng, đa nguyên tiếng nói phản biện xã hội của tầng lớp trí không chỉ thuần túy là phản biện đường lối chính trị, phản biện chủ trương chính sách của một đảng phái nào đó mà trải rộng ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người và xã hội. Quan trọng hơn cả là sự phản biện lẫn nhau giữa đội ngũ những người trí thức liên quan đến những phát minh, phát kiến, tư tưởng học thuyết chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, luật pháp…Sự phản biện này chủ yếu diễn ra trong môi trường học thuật, trên tinh thần khoa học khách quan và được công bố rộng rãi trên các tạp chí, diễn đàn học thuật, các phương tiện thông tin truyền thông để công chúng tùy vào sự hiểu biết và mối quan tâm của mình mà tìm hiểu, nghiên cứu…

Trên cơ sở sự phản biện này, các chính khách, các nhà cầm quyền ở các quốc gia đa đảng sẽ vận dụng, áp dụng vào đường lối xây dựng đất nước khi họ đắc cử và nắm quyền lãnh đạo (theo từng nhiệm kỳ cụ thể).

Việt Nam là quốc gia độc đảng, chuyên chế và toàn trị. Dĩ nhiên việc những người trí thức lên tiếng phản biện chính quyền về những chủ trương chính sách trong việc quản trị quốc gia là vô cùng quan trọng và cần thiết. Nhưng phải chăng, vì quá chú trọng đến vấn đề này nên không ít trí thức nước nhà lại rơi vào “cái bẫy phản biện” do chính mình giăng ra?

Nói khác đi, không khó để chúng ta nhận ra, việc phản biện xã hội của tầng lớp trí thức Việt Nam thời gian qua, đa phần chỉ chăm chăm vào phản biện thể chế chính trị, phê phán sự yếu kém của các quan chức lãnh đạo chính quyền mà cố tình quên đi hoặc làm ngơ trước những trì trệ khác của xã hội mà trong vai trò, trách nhiệm của người trí thức chính họ chứ không ai khác đã trực hoặc gián tiếp gây nên.

Một cách chân thành và trung thực nhất chúng ta hãy nhìn lại vai trò của một bộ phận trí thức trên lĩnh vực Văn Hóa và Giáo dục kể từ khi Việt Nam mở cửa hội nhập từ 1986 đến nay thông qua các công trình, đề án, dự án của họ được nhà nước tuyên truyền và phổ biến trong dân chúng. Gần nhất là vai trò những người tham gia vào công cuộc “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục” với tư cách người trực tiếp thực hiện và phản biện đề án này ra sao.

Đành rằng giáo dục ở Việt Nam hiện nay trên thực tế chỉ là “cái vòng tròn nhỏ trong cái vòng tròn lớn” (Nguyên Ngọc). Về tư tưởng chính trị dĩ nhiên “Đảng ta” vẫn đang kiểm soát mọi thứ. Dẫu vậy, trong từng phần việc cụ thể như: xác định mục tiêu chương trình giáo dục, vấn đề biên soạn và thẩm định nội dung các bộ SGK, hay việc tổ chức hoạt động dạy và học trong nhà trường, việc đào tạo đội ngũ giáo viên phổ thông ở các trường đại học sư phạm trên cả nước… đều do đội ngũ trí thức bao gồm các nhà khoa học, nhà giáo dục trong từng lĩnh vực đảm nhiệm.

Đành rằng lãnh đạo Ban Tuyên giáo của “Đảng ta” vẫn kiểm soát về tư tưởng chính trị nhưng trong từng phần việc và công đoạn cụ thể họ vẫn dựa và tham mưu, tham vấn từ những công trình nghiên cứu về khoa học giáo dục, tư duy và phương pháp của đội ngũ trí thức nước nhà để triển khai.

Nhà cầm quyền cũng rất kỳ vọng về lần đổi mới này khi đã “chọn mặt gửi vàng” những “trí thức” mà họ tin tưởng. Nhưng kết quả thì sao? Các bộ SGK lớp 1, lớp 2 vừa được biên soạn và thông qua theo chương trình giáo dục mới đã và đang gây thất vọng và phẫn nộ trong xã hội. Tại sao như vậy? Trách nhiệm này thuộc về ai? Có phải chỉ do nhà cẩm quyền, do thể chế độc đảng này gây ra hay không? Những cá nhân trực tiếp gây ra sự thất vọng này đã ứng xử như thế nào trong tư cách của một người trí thức?

Một vấn đề khác, liên quan đến vấn đề đào tạo Tiến sĩ hay phong học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư thời gian qua. Đây là phần việc cụ thể mà nhà cầm quyền cũng dựa trên sự tham mưu và tư vấn từ đội ngũ trí thức nước nhà để triển khai. Khách quan mà nói, quy trình đào tạo Tiến sĩ và phong hàm PGS, GS ở Việt Nam về cơ bản phải qua rất nhiều vòng và cũng tương đối chặt chẽ nhưng tại sao chất lượng của đội ngũ này chưa bao giờ thôi là đề tài châm biếm, giễu cợt của xã hội mỗi khi nhắc đến?

Về vấn đề này, theo chúng tôi trước hết cũng phải nhìn nhận lại vai trò và trách nhiệm của chính đội ngũ trí thức nước nhà trong tư cách những nhà khoa học, nhà giáo dục. Thực tế là, có không ít người sau khi nhận ra những bất cập trong quy trình đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ; điều kiện để phong học hàm PGS, GS nên đã đề nghị ngành giáo dục phải siết chặt và nâng cao tiêu chuẩn cho phù hợp với “thông lệ quốc tế”… Thế nhưng, đáng buồn thay, trong nhiều trường hợp chính họ chứ không phải ai khác, trong tư cách người hướng dẫn hoặc phản biện đã “dễ dãi” thông qua các luận văn, luận án, công trình khoa học kém chất lượng; gây ra cảnh “vàng thau lẫn lộn”. Một số “cây đa cây đề” ngoài miệng thì lên án, mỉa mai trình độ của các quan chức lãnh đạo trong bộ máy công quyền nhưng nếu quan sát kỹ sẽ thấy cũng chính họ đã bỏ phiếu thông qua để cấp bằng và phong học hàm cho chính các quan chức kia. Đây là gì nếu không phải là sự suy đồi và tha hóa của của một bộ phận trí thức ở phương diện đạo đức nghề nghiệp, đạo đức khoa học vì đã “nói một đằng làm một nẻo”, rất không trung thực?

Đến đây, có thể nói, phản biện xã hội hoàn toàn không phải chỉ gắn với phản biện chính trị, phản biện thể chế, phản biện các chính khách cầm quyền. Hay một số người thậm chí còn đồng nhất hai vấn đề này khi lên tiếng công kích những cá nhân thường ngày lặng lẽ, âm thầm làm việc chuyên môn, ít khi lên tiếng phản biện nhà cầm quyền trên các phương tiện truyền thông.

Việc đồng nhất vấn đề phản biện xã hội với phản biện thể chế chính trị không những thu hẹp nội hàm và ý nghĩa của khái niệm này mà còn vô tình hạ thấp vai trò và trách nhiệm của tầng lớp trí thức ở các lĩnh vực khác. Đây là nhận thức sao lầm và nguy hiểm. Tiếc thay, lại là điều mà không ít trí thức hiện nay ở Việt Nam vướng phải.

Một nhà văn viết ra tác phẩm với tư tưởng mới mẽ, mang đến cho độc giả một sự sảng khoái về xúc cảm thẩm mỹ cũng là đang làm cái việc phản biện xã hội rồi. Bởi một suy nghĩ mới, ý tưởng mới, lối viết mới tự bản thân nó là đã phản biện lại lối nghĩ, lối viết cũ của chính anh ta hay những nhà văn trước đó.

Tương tự như thế là với nhà khoa học, nhà giáo dục,.. Những công trình, những phát minh, những sáng kiến khoa học hay việc giảng dạy, truyền thụ của họ nếu giúp cho thế hệ trẻ ngày một trưởng thành hơn về tư duy, nhận thức, lối hành xử, ứng xử cao đẹp trong cuộc sống như thế cũng là đang phản biện lại sự trì trệ và xấu xa trong xã hội.

Nếu Ngô Bảo Châu không chứng minh Bổ đề cơ bản thì liệu có mấy người trong nước biết đến? Nếu không được trao giải Fields thì tiếng nói phản biện của ông (nếu có) liệu có được nhà cầm quyền tôn trọng và lắng nghe? Vai trò và vị trí của người trí thức trong xã hội trước hết phải được đánh giá như thế chứ không phải và không nên chỉ nhìn ở việc anh ta có lên tiếng phản biện lại nhà cầm quyền hay không?

Tiểu kết

Có thể thấy, thời gian qua, chính cách nghĩ có phân dễ dãi khi đồng nhất vấn đề “phản biện xã hội” với phản biện hay thậm chí phê phán thể chế chính trị độc đảng ở Việt Nam đã làm cho không ít người trở nên ảo tưởng. Có người giờ đây, dù chẳng chẳng học hành gì, chẳng có thành tựu gì nhưng cũng lên tiếng “phản biện” chính quyền rất máu lửa để được xã hội “phong hàm trí thức”. Thậm chí, chỉ cần lên mạng xã hội “treo” vài ta tút mắng chửi, công kích chính quyền bất kể đúng sai là được phong thành nhà dân chủ, trí thức cấp tiến, được cộng đồng mạng tung hô hết lời.

Chúng ta không phủ nhận một xã hội muốn phát triển theo hướng văn minh cần có tiếng nói phản biện của thành phần trí thức. Dẫu vậy, người trí thức trước khi phản biện cần phải biết phản tư, phải tự soi rọi lại chính mình, tự vấn lương tâm mình.

Sự tự vấn này rất quan trọng vì sẽ giúp cho những người trí thức đang ra sức đấu tranh cho các quyền tự do, dân chủ trong xã hội không rơi vào cái bẫy của sự độc đoán và ảo tưởng – vấn đề mà bản thân anh luôn miệng phản biện lại nhà cầm quyền. Bởi suy cho cùng bản thân anh cũng là một cá thể góp phần làm nên cộng đồng và xã hội này.

Ở phương diện khác, là trí thức, điều quan trọng và trước hết anh phải trung thực với bản thân. Trung thực để nhìn nhận những việc làm của mình trong tư cách những nhà khoa học, nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà văn hóa, nhà nghệ sĩ… Những việc làm ấy có đúng đắn không, đã tác động và ảnh hưởng như thế nào đối với xã hội cả mặt tích cực lẫn tiêu cực?

Tóm lại, sự suy đồi và xuống cấp về đạo đức, văn hóa ở xã hội Việt Nam hôm nay không phải chỉ do “Đảng ta” mà còn do chính đội ngũ trí thức nước nhà ít nhiều đã trực hoặc gián tiếp gây ra. Những người trí thức hôm nay nếu không dũng cảm thừa nhận trách nhiệm của mình để thay đổi, ngược lại chỉ chăm chăm phản biện và đổ lỗi cho ngoại giới, cho tha nhân là không trung thực với bản thân, và nhất là đang vô tình tự hạ thấp chính mình, giới mình.

Nói như Giáo sư Ngô Bảo Châu là: người trí thức “có vai trò gây sức ép lên người lãnh đạo nhưng cũng như lãnh đạo anh ta không độc quyền chân lý”.

Trí thức mà độc quyền chân lý, không dũng cảm chịu trách nhiệm cho những sai lầm của bản thân cũng nguy hiểm không khác gì những chính trị gia, các nhà lãnh đạo độc tài mà anh ta đã lên tiếng phản biện và phê phán.

Kỳ 2: Vì Sao Tiếng Nói Phản Biện Của Tầng Lớp Trí Thức Việt Nam Ít Có Tác Dụng Với Nhà Cầm Quyền?

Thời gian qua, chứng kiến sự tụt hậu của đất nước; hay những sự kiện liên quan đến an ninh chủ quyền quốc gia, sự cố thảm họa môi trường, những chính sách sai lầm của nhà cầm quyền trong việc thu hồi đất của người dân gây nên những thảm kịch đớn đau điển hình là vụ Đồng Tâm ở Hà Nội; thông qua các kênh khác nhau các nhân sĩ trí thức nước nhà hoặc là với tư cách cá nhân hoặc tập hợp lại thành những hội nhóm gửi kiến nghị, “tâm thư” đến nhà cầm quyền hoặc cá nhân lãnh đạo cấp cao nào đó.

Trước hết, phải nói rằng cá nhân tôi luôn tôn trọng những ý kiến được gửi gắm qua những đơn thư và kiến nghị của đội ngũ nhân sĩ trí thức nước nhà. Bởi đây trước hết là quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ chính kiến của họ với tư cách là công dân trong “nhà nước pháp quyền XHCN”.

Dẫu vậy, ở phương diện khác, trong cảm nhận của riêng tôi, dường như những đơn thư, kiến nghị này rất ít có tác dụng với nhà cầm quyền. Trong một vài vấn đề cụ thể, tôi nghĩ rằng, nhà cầm quyền chắc chắn có tiếp thu nhưng có lẽ vì sỉ diện nên họ không hồi âm mà chỉ âm thầm điều chỉnh, thay đổi. Nhưng với những vấn đề lớn như “cải cách thể chế chính trị”, vấn đề thực hiện và tôn trọng “nhân quyền”, hay những sự vụ nghiêm trọng như vụ Đồng Tâm…nhà cầm quyền không những không thèm nghe mà có khi còn làm khó dễ những người kiến nghị.

Vì sao như vậy? Tôi thử lý giải nguyên nhân vấn đề này qua một số đặc điểm và biểu hiện dưới đây.

Tính chính danh, sự cực đoan, “đông mà không tinh” của tầng lớp trí thức

Ở phần trước, chúng tôi đã nói một xã hội muốn phát triển theo hướng văn minh đương nhiên rất cần có tiếng nói phản biện của thành phần trí thức.

Dẫu vậy, người trí thức trước khi lên tiếng phản biện vấn đề gì đó nhất là những vấn đề liên quan đến đường lối, chính sách của nhà cầm quyền phải luôn tự vấn bản thân mình. Điều này càng quan trọng hơn với một quốc gia độc đảng, chuyên chế và toàn trị như Việt Nam.

Có thể nói, bản chất và tâm lý chung của các nhà cầm quyền độc tài trên thế giới là vừa kiêu ngạo vừa sợ hãi. Kiêu ngạo khi tự cho mình là là “tài tình sáng suốt”, là “đỉnh cao”, là số một, là chân lý cuối cùng,… Cũng chính vì quá kiêu ngạo nên mặt khác họ luôn cảm thấy không an tâm và sợ hãi khi có ai đó phản biện, chỉ ra sự tệ hại, giả dối của mình – một kiểu “tự kỷ ám thị”. Chính bản chất và tâm lý này nên những người trí thức ở xã hội độc đảng, chuyên chế phải thường xuyên đối mặt với những tình huống khó khăn thậm chí bi kịch hơn tầng lớp trí thức ở các quốc gia đa nguyên đa đảng.

Những người trí thức ở các quốc gia đa nguyên, đa đảng khi tham gia phản biện xã hội, phản biện nhà cầm quyền hầu như không bị các đảng phái, phe nhóm đối lập điều tra, truy nguyên lý lịch tổ tông ba đời và gây ảnh hưởng đến bạn bè, người thân. Ngược lại, ở các quốc gia độc tài, người trí thức rất dễ bị nhà cầm quyền chụp mũ chính trị, thậm chí thủ tiêu “thà giết lầm hơn bỏ sót” nếu họ cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa.

Thế nên, sự cẩn trọng, tính xác đáng, nhất là không cực đoan trong khi phản biện nhà cầm quyền trước hết là cách để những người trí thức tự bảo vệ bản thân mình. Quan trọng hơn nữa phải làm sao “thuyết phục”, “dỗ dành” nhà cầm quyền để tránh cho họ cái tâm lý bị “mất mặt” (với dân chúng và với bạn bè quốc tế) vì những sai lầm mà họ gây ra. Đồng thời không có cảm thấy bất an, sợ hãi vì bị đe dọa lật đổ hay tước đoạt quyền lực.

Khách quan mà nói, không một chính khách, không một nhà cầm quyền nào, thuộc thể chế chính trị nào đang ở ngôi cao quyền lực mà không sợ bị kẻ khác lật đổ. Trong khi đó, bản chất của hoạt động phản biện xã hội nói chung là sự trao đổi, đối thoại, thảo luận, tranh luận để tìm giải pháp tốt nhất cho vấn đề nào đó trên tinh thần thỏa thuận bất bạo động.

Rất có thể khi rà soát và điều tra về nhân thân, lý lịch của những trí thức gửi thư kiến nghị, “Đảng ta” đã phát hiện ra, bên cạnh số ít những nhân sĩ trí thức chân chính là hàng loạt những “trí thức”, các “nhà dân chủ tự phong” trên mạng xã hội? Chính điều này đã làm cho “Đảng ta” không an tâm về tính chính danh và thiện chí thật sự của những người gửi kiến nghị. Vì trên thực tế, nhận thức của các “trí thức”, các “nhà dân chủ tự phong” về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền không những hời hợt mà còn rất cực đoan. Thậm chí, trong mắt nhà cầm quyền, đây là “những phần tử cơ hội, cấu kết với thế lực phản động” nào đó bên ngoài với âm mưu bạo loạn lật đổ họ.

Nếu “Đảng ta” với thói quen “tô hồng”, luôn thổi phòng những thành tựu và che dấu sự thật về những sai lầm và yếu kém của mình thì các “trí thức”, các “nhà dân chủ tự phong” lại cố tình hạ thấp, phủ nhận bằng cách cố tình bôi đen. Nên xét về bản chất cả hai đều giả trá và “xuyên tạc sự thật” như nhau. Vì vậy, nếu quyền lực mà chuyển giao cho những người này cũng không lấy gì đảm bảo một tươi sáng hơn cho dân tộc và đất nước. Trong hàng ngũ của nhà cầm quyền, có thể không nhiều nhưng chắc chắn vẫn có những trí thức với tư tưởng cấp tiến nên không khó để họ nhận ra vấn đề này.

Đến đây, có thể thấy, tiếng nói phản biện của tầng lớp trí thức quan trọng nhất là ở tính chính danh, ở sự nghiêm túc và chuyên nghiệp trong cách nghĩ, cách làm.

Nhìn rộng ra, có thể nói những kiến nghị liên quan đến vấn đề “cải cách thể chế”, các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của tầng lớp trí thức thời gian qua về lý thuyết có thể không sai, dẫu vậy các điều kiện để thực thi trong thực tế dường như vẫn chưa thật sự chín muồi. Cụ thể là tư duy, nhận thức, ý thức của dân chúng liên quan đến những vấn đề này nhìn chung vẫn chưa được chuẩn bị, trang bị một cách căn cơ và toàn diện.

Và đây, suy cho cùng cũng chính là trách nhiệm của tầng lớp trí thức trong vai trò những người làm công tác giáo dục, các nhà nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, chính trị, pháp luật…

Sự đa nhân cách, xu thời, nước đôi của một bộ phận trí thức 

Trí thức phải có tư duy độc lập, phải có chính kiến để “dám đương đầu với cường quyền”, v.v… là quan điểm không sai về phương diện lý thuyết. Nhưng nói là một chuyện còn thực hành những điều ấy trong thực tế cuộc sống là một chuyện khác.

Quan sát những gì đang diễn ra, rất tiếc tôi buộc phải nói rằng Việt Nam hôm nay thật sự rất ít những trí thức có tư duy độc lập và chính kiến. Thay vào đó, nhìn vào cách hành xử, ứng xử của không ít người nhất là những người rất khó để tin họ đang thuộc “phe nhân dân” hay “phe chính quyền”, “phe nước mắt, cần lao” hay “phe đại gia, tư bản đỏ”; phe bảo thủ hay cấp tiến vì “mâm” nào họ cũng có mặt.

Về chuyện này, tôi thấy cần nhắc lại quan điểm của mình trong bài viết trước đây. Sự băng hoại về đạo đức văn hóa ở xã hội Việt Nam hôm nay có nguyên nhân rất lớn từ suy nghĩ và lối sống muôn mặt, giả tạo, lá mặt lá trái, gió bề nào che bề đó của một bộ phận những người có chữ trong tư cách nhà văn, nhà giáo, nhà báo…Và đây cũng chính là nguyên nhân làm cho nhà cầm quyền nghi ngờ, không coi trọng, không lắng nghe những kiến nghị, góp ý của tầng lớp trí thức nước nhà thời gian qua.

Sinh thời, triết gia người Pháp Jean-Paul Sartre là người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Tuy vậy, Jean-Paul Sartre vẫn xứng đáng là một trí thức đúng nghĩa, nói được làm được.

Năm 1964, Jean-Paul Sartre đã từ chối giải Nobel Văn học của Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển. Trong một lá thư gửi đến những người xét trao giải năm đó, J. P. Sartre đã giải thích sở dĩ ông từ chối sự khen ngợi và tôn vinh này vì ông sợ bị lệ thuộc vào ánh hào quang của giải thưởng và tổ chức. Như thế sẽ làm ông đánh mất tư duy độc lập, khiến ông trở nên gò bó trong sáng tác và nghiên cứu. Trên thực tế, ông cũng từng từ chối nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh do Nhà nước Pháp trao tặng năm 1945.

Trong cái nhìn so sánh, xem ra những người có chữ ở Việt Nam hôm nay rất ít người có cách hành xử, ứng xử như Jean-Paul Sartre. Gần như không một giải thưởng văn chương lớn nhỏ nào ở xứ này không có kiện tụng, tranh cãi. Trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà báo gì mà ngoài miệng thì bảo không quan tâm và coi thường các giải thưởng, các danh xưng, danh hiệu của nhà nước trao tặng nhưng mặt khác vẫn âm thầm làm hồ sơ hoặc đi đêm vận động hành lang để mong được giải. Đến khi không được rồi thì lại tiếp tục công kích và thưa kiện.

Là trí thức trước hết phải trung thực cả trong suy nghĩ lẫn lời nói, hành động. Không ít người hôm nay, khi đánh giá và luận về Tố Hữu đều tỏ thái độ dè bĩu, miệt thị hết lời. Nhưng công bằng và khách quan mà nói, Tố Hữu, xét trong bối cảnh văn hóa, xã hội ở miền Bắc Việt Nam trước đây là người không phải không đáng trọng, đáng nể. Tố Hữu sinh ra và lớn lên trong bầu khí quyển cách mạng ấy, nhận thức của ông trong khuôn khổ như thế và ông đã chung thủy, cả đời sống chết với lý tưởng mà ông đã lựa chọn và phụng sự. Hậu thế hôm nay dĩ nhiên có quyền phán xét những sai lầm của ông nhưng đó là chuyện của hậu thế dù sao ông cũng chẳng còn để mà bận tâm.

Thế nhưng, ở phương diện nào đó, tôi rằng Tố Hữu vẫn không nguy hiểm và đáng sợ bằng những kẻ ngay từ đầu tuy biết rõ ông, hiểu rõ thơ ông thật ra cũng chẳng phải đỉnh cao gì nhưng vẫn hết lời tung hô, “khấn khứa” để mong tìm một “chỗ đứng”, một thành tựu cho riêng mình. Nhưng khi ông bị thất sủng hoặc không còn nữa thì ngay lập tức “bẻ kèo”, quay sang công kích.

Nói khác đi, là một trí thức không thể khi cần thì anh vuốt ve, bợ đỡ các quan chức lãnh đạo trong bộ máy chính quyền để được giao cho các đề án, dự án cấp nhà nước, cấp quốc gia nhưng khi xong việc hoặc vừa nhận sổ hưu là ngay lập tức lên mạng xã hội mạt sát, công kích, đổ hết mọi sai lầm và tội lỗi cho “Đảng ta” như một cách chứng minh bản thân minh trong sạch và là người có tư tưởng cấp tiến.

Nên nhớ nhà cầm quyền cộng sản ở Việt Nam vốn là “bậc thầy” trong các chiêu trò “dân vận”, “đánh du kích”, “đánh trong lòng địch” đánh ra. Bằng kinh nghiệm “đánh Pháp đuổi Mĩ”, “giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” trước đây cộng với tất cả công cụ và quyền lực hiện có, không khó để họ nhận ra trong danh sách những cái tên viết tâm thư, kiến nghị đâu là những trí thức thực thụ, đâu là trí thức bất mãn, “trở cờ”, “hai ba mang”, đâu là trí thức được “phong hàm” trên mạng xã hội…

Ngoài ra, như đã nói, các quan chức lãnh đạo trong bộ máy công quyền đương nhiên cũng là trí thức – trí thức “của Đảng”, “do Đảng và “vì Đảng”, “còn Đảng còn mình”. Nên dĩ nhiên không phải họ ngu, không biết gì. Trên thực tế, với những trí thức nước đôi, ba phải họ nhìn thấy hết, biết hết. Nhưng tạm thời họ cứ để đó và theo dõi, tùy đối tượng và tình hình cụ thể, cần thiết họ mới “ra tay”. Hoặc là bằng đội ngũ tuyên giáo, “dư luận viên” trên mạng tung ra để mắng chửi lại hoặc bằng những biện pháp mạnh hơn nếu thấy nguy hiểm.

Đến đây thiển nghĩ, các nhân sĩ, trí thức ở Việt Nam hôm nay hẳn đã biết vì sao tiếng nói phản biện của giới mình lâu nay ít được nhà cầm quyền lắng nghe. Nhà cầm quyền vốn độc tài và bảo thủ nhưng chính sự đa nhân cách, thái độ ứng xử, hành xử kiểu nước đôi, ba phải của không ít người có chữ hôm nay đã làm cho họ càng thêm nghi ngờ, cảnh giác và coi thường hơn.

Thay lời kết

Mỗi khi nghĩ về tầng lớp trí thức trong xã hội Việt Nam hôm nay, không hiểu sao trong đầu tôi lại nhớ đến bài viết “Thời vắng những nhà văn hóa lớn?” của GS Trần Hữu Dũng cách đây đã 10 năm trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn dịp Tết Tân Mão, năm 2011 [1]. Gần đây nhất là bài viết mà nhan đề chỉ có hai từ “Chừng Mực” của Giáo sư Cao Huy Thuần. [2].

Sở dĩ đã hơn 10 năm nhưng tôi vẫn nhớ bài viết của GS Trần Hữu Dũng là vì theo tôi, cách nhìn vấn đề của ông không những rất sâu sắc, độc đáo mà vẫn còn nguyên tính thời sự. Tôi thích cách ông đã cố ý phân biệt giữa hai khái niệm “nhà văn hóa lớn” và nhà “trí thức”. Ông nói:

Thế nào là một nhà văn hóa lớn? Tất nhiên, xã hội nào cũng có những trí thức, những người tham gia (có thể rất tích cực) vào hoạt động văn hóa trong lĩnh vực này hoặc lĩnh vực nọ… Song, những nhà văn hóa lớn có một vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã hội nào, lúc nào cũng có những nhà văn hóa như thế. Đó là những người mà sự uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng suất làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo, chẳng hạn) hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ “định nghĩa” tính thời đại của một nền văn hóa. Nhà “văn hóa lớn”, nói cách khác, là người có những suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những khám phá, lập luận, có tính tổng hợp, liên ngành (ví dụ như lịch sử và văn học, triết học), không bị giới hạn trong một ngành chuyên môn nào.”

Với bài “Chừng mực” của GS Cao Huy Thuần, không hiểu sao ngay khi đọc những câu mở đầu tôi lại thấy tự xấu hổ với chính mình. Xấu hổ thực sự vì thái độ chừng mực của một trí thức uyên thâm như ông (với riêng tôi GS Cao Huy Thuần cùng với nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, là một nhà văn hóa lớn hiếm hoi của Việt Nam hôm nay).

GS Cao Huy Thuần nói hơn 21 năm qua, bản thân ông khi bàn về các vấn đề tự do dân chủ ở Việt Nam chưa bao giờ ông động đến mấy chữ “tam quyền phân lập”. Vì sao như vậy? Không phải ông sợ cũng “chẳng phải vì nó là ta-bu”, mà vì ông nghĩ trong bối cảnh văn hóa, lịch sử, con người ở xã hội Việt Nam hôm nay “hãy còn quá sớm để đi vào chi tiết cụ thể khi điều kiện chưa hội đủ, đầu óc chưa sẵn sàng để bước… ngay cả cái bước đầu tiên”.

Phải chăng “Thời vắng những nhà văn hóa lớn”“Chừng mực” là cách đặt vấn đề qua cho thấy một thái độ và sự tự vấn lương tâm, tự vấn chính mình rất sâu sắc và cần thiết của người trí thức? Tự vấn để không ảo tưởng, không đổ lỗi, không thể thoái thác trách nhiệm của bản thân trước thực trạng văn hóa xã hội mà chính mình đôi khi vừa là kẻ dự phần tham gia kiến tạo nên.

Giống như cách đây 10 năm, khi lý giải nguyên nhân tại sao xã hội Việt Nam lại thiếu “vắng những nhà văn hóa” lớn, GS Trần Hữu Dũng bảo rằng “phần ít là lỗi của xã hội, mà phần lớn là nhược điểm của chính cộng đồng trí thức (là vườn ươm những nhà văn hóa lớn)” ở Việt Nam chúng ta.

CT, Ngày 5-6/10/2021

Q.H.N

—-

Chú thích nguồn:

Kỳ 1:

[1]: Tạ Duy Anh – “Trí thức và tiếng nói phản biện”. https://www.facebook.com/profile.php?id=1160946631

[2]: Ngô Bảo Châu (trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ) – “Giáo sư Ngô bảo Châu: Bạn trẻ vẫn đầy niềm tin tương lai”. https://tuoitre.vn/giao-su-ngo-bao-chau-ban-tre-van-day-niem-tin-tuong-lai-474615.htm

Kỳ 2:

[1]: Trần Hữu Dũng – “Thời vắng những nhà văn hóa lớn”. https://thesaigontimes.vn/thoi-vang-nhung-nha-van-hoa-lon/

[2]: Cao Huy Thuần – “Chừng mực”. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai38/201938_CaoHuyThuan.pdf.

(*) Bài viết đăng trên Viet-study làm 2 kỳ, BVN gộp đăng thành 1 bài

Nguồn: Viet-Study

This entry was posted in Trí thức, Trí thức và thời cuộc. Bookmark the permalink.