Chuyến hải hành của tàu sân bay Queen Elizabeth tới Biển Đông, cơ hội cho các nước Đông Nam Á

Trần Nam Thắng

Chuyến hải hành của tàu sân bay Queen Elizabeth tới Biển Đông, cơ hội cho các nước Đông Nam Á

Tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Hải quân Hoàng gia Anh ở Portsmouth, miền nam nước Anh hôm 22/5/2021. AFP

Sứ mệnh của Tàu sân bay Queen Elizabeth

Tàu sân bay Queen Elizabeth bắt đầu thực hiện chuyến công tác dài 28 tuần từ ngày 22/5. Trong số 1.600 thủy thủ đoàn có 250 thành viên thuộc lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ. Đây là một dấu hiệu chứng tỏ liên minh quốc phòng chặt chẽ giữa hai nước Anh và Mỹ.

Nhóm tác chiến tàu sân bay này gồm một khinh hạm của Hà Lan và một tàu khu trục của Mỹ, cũng như 10 máy bay phản lực F35-B của Mỹ, cùng với 8 chiếc F35-B của Anh cũng được triển khai trên tàu. Sự thể hiện tình đoàn kết và khả năng phối hợp tác chiến với các đối tác quốc phòng này nhằm mục đích phô diễn sức mạnh.

Với hành trình dự kiến dài 26.000 hải lý từ Địa Trung Hải qua Vịnh Aden đến Biển Đông, lần triển khai này nhằm mục đích chứng minh rằng nước Anh hậu Brexit vẫn có vị thế quốc tế xứng đáng. Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace mô tả tàu sân bay Queen Elizabeth là “một tàu chiến, một tàu mẹ, một tàu trinh sát giám sát… và một cỗ máy triển khai sức mạnh mềm và sức mạnh cứng của nước Anh”.

Trọng tâm của chuyến đi kéo dài 8 tháng nhằm thực hiện quyền tự do hàng hải ở biển Đông này được coi là một tín hiệu quân sự đối với Bắc Kinh, khi mà các cuộc xâm nhập trên không và trên biển của Trung Quốc xung quanh Đài Loan cũng như các hành động hung hăng của họ tại Biển Đông đang làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.

Đây là khoảnh khắc quan trọng đánh dấu nỗ lực của Anh nhằm xây dựng một chính sách đối ngoại mới bên ngoài Liên minh châu Âu (EU), một minh chứng cho hành động cân bằng khó khăn nhưng cần phải thực hiện để dung hòa những đòi hỏi mới về kinh tế, chính trị và an ninh của nước này.

Chính sách của Anh về Trung Quốc đang xoay chiều

Chính sách đối với Trung Quốc của Anh luôn biến động. Mặc dù trước đây quan hệ Trung – Anh khá nồng ấm, nhưng trong năm qua, Chính phủ Anh đã cấm Huawei tham gia hệ thống mạng 5G, cấp quốc tịch Anh cho công dân Hong Kong có hộ chiếu hải ngoại của Anh và ban hành lệnh trừng phạt đối với các quan chức liên quan đến cuộc đàn áp người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Đạo luật Đầu tư và an ninh quốc gia mới, được Hoàng gia phê chuẩn gần đây, hứa hẹn sẽ ngăn chặn việc các công ty có quan hệ với những nhà nước như Trung Quốc mua các tài sản nhạy cảm của Anh.

Nhiều thành viên đảng Bảo thủ có tư tưởng hoài nghi Trung Quốc và các chuyên gia an ninh phàn nàn rằng điều này không đủ để giải quyết những gì họ coi là các mối đe dọa ngày càng gia tăng do Bắc Kinh đặt ra. Họ cho rằng Anh nên thẳng thắn hơn trong việc vạch rõ ranh giới với một quốc gia đã tăng gần gấp đôi chi tiêu quốc phòng trong thập kỷ qua, đẩy mạnh các hoạt động gián điệp chống lại phương Tây, trong đó có tấn công mạng, và áp đặt luật an ninh mới đối với Hong Kong.

000_1U638R.jpg

Hình chụp hôm 27/6/2020: một người đàn ông đi qua tấm biển quảng cáo điện thoại di động của tập đoàn Hoa Vi (TQ) ở Tokyo. AFP

Các quan chức an ninh phàn nàn rằng dù đã qua rồi cái thời theo đuổi đầu tư của Trung Quốc một cách bất chấp, nhưng họ vẫn chưa hiểu rõ thực tế của việc làm ăn với quốc gia này và ảnh hưởng của nhà nước này đối với khu vực tư nhân. Một người làm việc trong Chính phủ Anh đưa ra giả thuyết rằng nỗi lo sợ đối với các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt tương tự như Bắc Kinh đã áp dụng với Australia đã thúc đẩy việc tự kiểm duyệt khi thực hiện những hành động có liên quan đến lợi ích quốc gia của Anh.

Charles Parton, cựu quan chức ngoại giao Anh đồng thời là một chuyên gia về Trung Quốc, đã nhiều lần hối thúc chính phủ tích cực hơn trong việc ngăn chặn các công ty và trường đại học có quan hệ đối tác với các tổ chức của Trung Quốc trong những lĩnh vực công nghệ có thể được sử dụng cho cả mục tiêu quân sự và dân sự. Một báo cáo của tổ chức tư vấn Civitas vừa được công bố trong năm 2021 cho thấy hơn một nửa số trường trong Russell Group (hiệp hội gồm 24 trường đại học nghiên cứu công lập tại Anh) có quan hệ hợp tác nghiên cứu với các nhà sản xuất và các cơ sở giáo dục đại học của Trung Quốc. Các tổ chức này đều có mối liên hệ với quân đội.

Yêu cầu chiến lược

Trong bối cảnh bất ổn chính trị, việc triển khai tàu sân bay đến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương này – sau một thập kỷ kể từ khi khoản đầu tư trị giá 3,2 tỷ bảng vào tàu sân bay Queen Elizabeth được xác nhận lần đầu tiên – dường như là một động thái mang tính quyết định. Khi trình bày kế hoạch của mình tại Quốc hội vào tháng trước, Bộ trưởng Quốc phòng Wallace cảnh báo về thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trên biển, và cam kết rằng Anh sẽ tự tin nhưng không đối đầu khi đi qua biển Đông – tuyến đường thương mại quan trọng mà Trung Quốc muốn độc chiếm.

Phát biểu trước các nghị sĩ, ông Wallace nói: “Chúng ta phải bảo vệ các giá trị và quyền lợi của mình ở bất cứ nơi nào chúng bị đe dọa, không chỉ ở khu vực sân sau của Anh, mà còn ở những nơi xa hơn”.

Trung tá Chris Ansell, Phó chỉ huy tàu sân bay HMS Queen Elizabeth, nói rằng mục đích của việc triển khai lần này là nhằm tạo ra ảnh hưởng và khả năng tương tác của Anh với các đối tác trên toàn thế giới, cho thấy rằng Anh cũng có thể trở thành một đồng minh đáng tin cậy.

Mỹ hoan nghênh Anh tập trung vào việc ngăn chặn Trung Quốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhưng bản thân các quan chức Mỹ lại nói rằng trong giai đoạn hậu Brexit, họ mong muốn Anh hợp tác chặt chẽ hơn với các đồng minh châu Âu, những người mới công bố chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của riêng mình hồi tháng 4 vừa qua.

Curtis Scaparrotti, một tướng Mỹ đã nghỉ hưu và là cựu Chỉ huy Bộ tư lệnh tối cao quân đồng minh NATO tại châu Âu, mô tả hành động “xoay trục” của Anh sang khu vực này là hữu ích. Ông nói: “Thực tế là Anh có thể tăng cường sự hiện diện, tích lũy thêm kinh nghiệm, đảm bảo rằng tàu sân bay này có thể phối hợp tác chiến với các đồng minh khác, trong đó có cả Mỹ, và họ biết rằng bạn sẵn sàng xuất hiện, đó là điều mà Trung Quốc không thể phớt lờ. Câu hỏi duy nhất của tôi là liệu họ có thể duy trì được điều đó hay không”.

Các quan chức quân đội Anh đang xem xét làm thế nào để khiến cam kết với châu Á trở nên có ý nghĩa. Ngoài sự hiện diện của các lực lượng vũ trang hiện có ở Brunei, một căn cứ quân sự ở Oman và một bộ chỉ huy hàng hải ở Bahrain, các chỉ huy đang thảo luận riêng về ý tưởng đặt một tàu sân bay ở châu Á trong dài hạn.

Anh đang bận rộn tìm cách hợp tác với các đồng minh phương Tây về chính sách đối với Trung Quốc – một nỗ lực trở nên cấp thiết sau quyết định loại Huawei khỏi các mạng 5G của Anh vào năm 2020, thúc đẩy các cuộc thảo luận với các đồng minh về việc làm thế nào để nhanh chóng tìm ra các nhà cung cấp viễn thông thay thế.

Các nhà ngoại giao Anh cũng đang tìm cách đưa Anh trở thành một phần của một nhóm rộng lớn hơn có thể lên tiếng về các hành vi vi phạm nhân quyền ở Hong Kong và Tân Cương, để tránh bị cô lập khi chỉ trích.

Tín hiệu tốt cho các nước Đông Nam Á

Từ khi ông Biden nắm quyền Tổng thống, ông đã thúc đẩy chính sách lôi kéo các đồng minh, sửa chữa các “lỗi lầm” đã khiến các đồng minh của Mỹ mất lòng. Chính vì vậy, nước Anh – một đồng minh thân thiết lâu đời của Mỹ đã và đang xoay trục chính sách, sát cánh cùng với Mỹ để chống lại các đe doạ từ Bắc Kinh, trong đó Biển Đông là khu vực quan trọng.

Các nước châu Âu khác, bao gồm Pháp và Đức, cũng đã điều chỉnh lại các chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của mình. Tất cả đều nhằm đối phó trước một Trung Quốc “cường hãn”.

Điều này sẽ có lợi cho các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc gia trực tiếp liên quan đến tranh chấp biển Đông với Trung Quốc như Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei, Indonesia. Thời gian vừa qua, Trung Quốc đã có nhiều hành vi hung hăng, đe doạ các quốc gia này. Đặc biệt, năm 2016, khi Trump chưa quan tâm nhiều tới Biển Đông, Duterte đã xoay trục sang thân Trung Quốc, các quốc gia như Malaysia, Brunei sợ “oai” Trung Quốc nên im tiếng, Lào và Campuchia thì “hết lòng” vì Trung Quốc, để mình Việt Nam đơn độc trong “trận chiến” đàm phán COC với Trung Quốc.

vncoastguard8021a.jpeg

Tàu tuần duyên Mỹ sau khi được sơn lại lớp vỏ tàu trở thành CSB 8021 neo đậu ở cảng Seatlle, Mỹ. Twitter Phạm Quang Vinh

Trước sự đe doạ của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc được “bật đèn xanh” bởi Luật Hải Cảnh có hiệu lực từ 1/2/2021, Việt Nam đã và đang ra sức nâng cấp năng lực của các cơ quan chấp pháp biển với sự giúp đỡ của Mỹ. Một tàu cảnh sát biển Việt Nam mang số hiệu 8021, nguyên là tàu tuần tra John Midgett của Tuần duyên Mỹ (lượng choán nước 3.250 tấn, dài 115 m, ngang rộng nhất 13 m), sắp được chuyển giao cho phía Việt Nam. Có tin đồn là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloy Austin sẽ ghé thăm Việt Nam nhân dịp dự Đối thoại Shangri La vào khoảng đầu tháng sáu. Nếu chuyến thăm này được tiến hành, thì rất có thể quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ sẽ chuyển sang một cấp độ cao hơn trước đây. Tuy nhiên, Đối thoại Shangri La đã bị huỷ bỏ do Đại dịch COVID-19 đang bùng phát trở lại ở châu Á. Vì vậy,  không rõ chuyến thăm sẽ tiếp tục hay là sẽ huỷ bỏ vào dịp này.

Các quốc gia khu vực Biển Đông luôn bị Trung Quốc áp đặt, cưỡng bức và đe doạ trên biển Đông cần tận dụng các cơ hội trước sự xoay trục chính sách của các đồng minh của Mỹ, mà nước Anh là ví dụ cụ thể. Các nước Đông Nam Á tại khu vực biển Đông có thể điều chỉnh các chính sách biển Đông của mình để thích ứng trước các tình hình mới.

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.

T.N.T.

Nguồn: RFA Tiếng Việt

This entry was posted in Biển Đông, Tàu sân bay Âu Mỹ đến Biển Đông. Bookmark the permalink.