Thành lập đặc khu kinh tế tại Việt Nam: lợi ích hay rủi ro?

RFA tiếng Việt

Thành lập đặc khu kinh tế tại Việt Nam: lợi ích hay rủi ro?

Ảnh minh họa: Tàu du lịch đang neo đậu tại một bãi biển ở đảo Phú Quốc. Ảnh chụp ngày 11/4/2017. AFP

Giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc Thơ, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia mới đây có bài viết với tựa tạm dịch ‘Đặc khu kinh tế tạo ra nhiều rủi ro hơn lợi ích’ (Special Economic Zones create more risks than benefits) được báo Sài Gòn Giải Phóng Online bản tiếng Anh đăng tải ngày 22/4.

Người dân Việt Nam lần đầu biết đến khái niệm đặc khu vào năm 2018, khi Chính phủ Hà Nội chỉ đạo soạn thảo dự án Luật đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt đối với Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, gọi tắt là Dự luật đặc khu để trình Quốc hội xem xét.

Tuy nhiên dự luật này đã gặp phải nhiều phản đối từ phía người dân trong suốt tháng 6 năm đó qua những cuộc biểu tình đông người tại nhiều nơi khắp cả nước.

Nguyên nhân được nói do những chính sách ưu đãi quá nhiều cho đặc khu khiến nhiều người dân và chuyên gia ở Việt Nam lo ngại. Điển hình như điều khoản thuế, chính sách nhập cảnh, quan trọng hơn hết là việc cho người nước ngoài thuê đất lên đến 99 năm trong dự luật có thể khiến người Trung Quốc vào chiếm đất của Việt Nam, nhất là ở những vị trí địa lý quan trọng là ba vùng đặc khu kể trên.

Dự luật được hoãn xem xét trong kỳ họp quốc hội cuối năm 2018 do chịu sức ép từ phía dư luận, đến nay vẫn chưa thông qua. Dù vậy, đây vẫn là vấn đề được nhiều người dân quan tâm đến hiện nay.

Bài viết của GS. TS. Trần Ngọc Thơ phân tích những điểm cần hiểu rõ về hình thức của đặc khu kinh tế. Theo ông, đặc khu kinh tế chỉ thành công thu hút nhà đầu tư mới nếu các ưu đãi thật hấp dẫn trong mối tương quan so với các đặc khu khác trên thế giới. Nguyên nhân được nói do các nhà đầu tư không phải tù nhân, họ đào thoát ngay lập tức nếu các ưu thế không như kỳ vọng. Do vậy, ưu đãi càng nhiều phát tín hiệu thất bại càng lớn.

Phải có chính sách đặc biệt, khác đi nhưng phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế xã hội chung chứ không phải vùng đặc khu đó để có những ưu tiên đặc biệt về chính sách thuế hay vấn đề liên quan việc sử dụng ưu đãi quá mức từ phía nhà nước.

PGS. TS. Đinh Trng Thnh

Bên cạnh đó, đặc khu là một lãnh thổ riêng biệt trong một quốc gia với sự hỗ trợ thuận lợi hơn về thuế và các quy định khác so với các khu vực khác của quốc gia. Dù đặc khu có thể mang lại những lợi ích to lớn, nhưng cũng có thể gây ra nhiều vấn đề.

Đồng quan điểm vừa nêu, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính vào tối 22/4 khi trao đổi với RFA cũng cho rằng chính sách là khâu đặc biệt đối với những đặc khu kinh tế.

“Phi có chính sách đc bit, khác đi nhưng phi phù hp vi điu kin hoàn cnh và phù hp nhu cu phát trin kinh tế xã hi chung ch không phi vùng đc khu đó đ có nhng ưu tiên đc bit v chính sách thuế hay vn đ liên quan vic s dng ưu đãi quá mc t phía nhà nước.

Qua kho sát ca mt s t chc quc tế vi rt nhiu doanh nghip có đu tư nước ngoài đang kinh doanh ti Vit Nam, không phi ưu đãi v chính sách thuế làm cho h đu tư Vit Nam mà vn đ quan trng là môi trường đu tư, ng x và tiếp cn th trường mt cách công bng, bình đng, càng công khai, càng minh bch, rõ ràng, c th thì h càng cm thy tt hơn, và không có chi phí ‘gm bàn’, thì lúc đó h mong mun đu tư vào Vit Nam”.

GS. TS. Trần Ngọc Thơ cho rằng nhìn qua ba giai đoạn phát triển của đặc khu kinh tế bắt đầu ở Trung Quốc từ những năm 1980 đến nay, đặc khu không còn là vùng biệt lập với diện tích đất khổng lồ và nhiều biệt đãi.

Tuy nhiên, các quốc gia cố gắng học hỏi từ mô hình đặc khu kinh tế của Trung Quốc được khuyến khích nên xem xét các đặc khu với trọng tâm chính là lựa chọn các khu vực ven biển.

Giải thích rõ hơn vấn đề này, từ Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính – ngân hàng độc lập cho hay:

“Đc khu kinh tế không bt buc phi ven bin, có th trong ni đa. Tuy nhiên ven bin có nhiu thun li, nht là vi các nhà đu tư Trung Quc mun ven bin vì các tàu bin có th cp bến d dàng, thun li hơn. Không ch Trung Quc mà các nhà đu tư nước ngoài cũng vy. ven bin tiếp cn được hàng hi, trong khi trong ni đa thì phi có đường hàng không, đường ô tô và đường xe ha.

Nhng đc khu kinh tế ven bin có thun li tiếp giáp đường hàng hi, đc bit ven bin là nhng vùng có th là mt hn hp gia công nghip và gii trí, cũng như nơi ngh ngơi. Thành ra ven bin luôn là nơi các nhà đu tư mong mun”.

Hình minh hoạ. Khu vực Bắc Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà. Nguồn: FB Bắc Vân Phong

Hình minh ho. Khu vc Bc Vân Phong, tnh Khánh Hoà. Ngun: FB Bc Vân Phong

Một nội dung đáng quan tâm khác về đặc khu kinh tế được GS. TS. Trần Ngọc Thơ nhắc đến trong bài viết là đặc khu chỉ là lựa chọn khi mức sinh lợi từ đây rất lớn, đủ để bù đắp thiệt hại trong trường hợp đặc khu thất bại.

Bên cạnh đó, sự quản lý kém của chính phủ dẫn đến nợ quốc gia quá nhiều là một trong những nguyên nhân khiến đặc khu kinh tế được chính phủ ủng hộ thành lập.

Việc tạo ra các đặc khu nhằm giúp tăng nguồn thu ngân sách được nói chỉ là biện pháp tạm thời và chứng tỏ đây là một sự lựa chọn thất bại, và chỉ ra sự lên ngôi của chủ nghĩa tư bản thân hữu. Từ đó nâng cao rủi ro chủ quyền từ thỏa thuận hoán đổi nợ thành đặc khu kinh tế.

Điển hình ở đây là việc Chính phủ Sri Lanka nhượng cảng chiến lược nước sâu Hambantota cho Trung Quốc để xóa khoản nợ 1,12 tỷ USD được gọi là hình thức hoán đổi nợ chủ quyền thành đặc khu.

Vì vậy, PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh cho rằng cần phải rất thận trọng trong việc hoạch định và tìm kiếm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như đặc khu nói riêng. Ông nói:

“Nếu chúng ta dùng vic hoán đi các khon n ca các quc gia đ t đó phát trin các đc khu kinh tế hay vay n đ phát trin và các đc khu kinh tế đu là điu không nên vì dn đến vic tăng n nn ca mt quc gia, đc bit có th là mt by n mà không phi hin ti, có th tr giá nó phi tr bng mt khong thi gian lâu dài.

Nhiu đi sau này s phi gánh chu hu qu nếu như li đi vay ca các quc gia đu tư phát trin khu kinh tế, đc bit vi nhng quc gia có mong mun và dã tâm bành trướng”.

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, những đặc khu kinh tế được biệt lập ra khỏi khu công nghiệp của các nước và được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế, về hải quan, nhưng có quy định riêng về lao động, vấn đề hành chính những khu đó.

“Trên thế gii đc khu kinh tế là nhng ch h khoanh vùng ra, đc bit đ sn xut, bán hàng ra nước ngoài. Đó là đc khu rt nhiu hàng hóa được xut khu. Đó là mô hình cn phi khai trin, tt cho Vit Nam”.

Tuy nhiên TS. Hiếu cũng cho rằng khi triển khai cần xem xét những điều kiện hợp lý. Điển hình như trong dự luật đặc khu trước đây của Việt Nam đã cho phép đồng Nhân dân tệ lưu hành trong địa bàn đặc khu Bắc Vân Phong, điều này là không thể chấp nhận vì xâm phạm đến chủ quyền tiền tệ Việt Nam và ngay cả ông cũng phản đối.

Còn theo GS. TS. Trần Ngọc Thơ, nếu muốn biết một nền kinh tế thực sự biến dạng như thế nào, thì hãy nhìn vào đặc khu kinh tế. Cũng cần lưu ý rằng xu hướng đặc khu kinh tế chỉ dành cho mục đích chính trị và giống như là một canh bạc. Theo ông, quốc gia không cần đặc khu kinh tế mới thực sự độc đáo và đặc biệt.

Nguồn: rfa.org/vietnamese

This entry was posted in Đặc khu kinh tế. Bookmark the permalink.