Chiến tranh Việt – Trung năm 1979 đã góp phần vào tiến trình lịch sử thế giới như thế nào

Vũ Minh Hoàng, Southeast Asia Globe, 17/2/ 2021

Trần Ngọc Cư dịch

Khi được yêu cầu kể tên năm sôi động nhất kể từ khi Thế chiến thứ Hai kết thúc, năm 2020 có lẽ sẽ đứng đầu danh sách của hầu hết mọi người.

Bắt đầu từ tháng 1 với vụ Mỹ ám sát tướng Qasem Suleimani của Iran, sau đó bị chi phối bởi sự lây lan nhanh chóng của loại coronavirus mới và bạo lực của cảnh sát đối với người Mỹ gốc Châu Phi đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình trên toàn thế giới, trước khi lên đến đỉnh điểm là các mưu toan làm mất uy tín tiến trình dân chủ ở Mỹ và Myanmar, năm 2020 sẽ in dấu như một trong những năm để lại nhiều hệ quả nhất trong lịch sử gần đây.

Mặc dù tất cả những điều vừa nói rất khó bác bỏ, nhưng năm 1979 là một ứng cử viên xứng đáng khác cho danh hiệu “Năm gần đây có nhiều biến cố nhất”. Năm 1979 chứng kiến các cuộc xung đột nổ ra – từ Đông Dương ở phía Đông đến Trung Mỹ ở phía Tây, Ireland ở phía Bắc và Angola ở phía Nam – đã làm mất ổn định trật tự lưỡng cực của Chiến tranh Lạnh và mở ra thời đại của các cuộc xung đột sắc tộc và giáo phái ngày càng gia tăng, còn mang tính đặc trưng của trật tự quốc tế của chúng ta ngày nay.

How the 1979 Sino-Vietnamese War shaped the course of world history

Lính Trung Quốc được các chiến binh Việt Nam giam giữ trên chiến trường Cao Bằng ngày 26/2/1979. Ảnh: AFP.

Và mặc dù Chiến tranh Lạnh chỉ kết thúc vào năm 1989, nhưng hạt giống cho sự suy tàn của nó đã được gieo vào một thập kỷ trước đó ở vùng biên giới Đông Nam Á vào năm 1979.

Ngày 17 tháng 2 đánh dấu 42 năm kể từ khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam, khi Bắc Kinh trả đũa việc Hà Nội lật đổ chế độ Khmer Đỏ. Là một cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhưng đẫm máu, nó chứng tỏ là thời điểm quan trọng trong một năm, có lẽ đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng nhất trong lịch sử cận đại – đó là năm 1979.

Bộ đội Việt Nam ở Kampong Cham trước khi rút khỏi Campuchia cuối năm 1989. Ảnh: AFP.

Năm đó bắt đầu với cuộc tấn công Campuchia của Việt Nam để đối phó với nhiều năm khiêu khích biên giới, chiếm thủ đô Phnom Penh vào ngày 7 tháng 1. Trong khi người Việt Nam giải phóng đất nước này khỏi ách thống trị tàn bạo của Khmer Đỏ, họ đã thất bại trong việc bắt giữ các nhà lãnh đạo của chế độ này và thu hút sự ủng hộ quốc tế cho chính phủ mới được thành lập. Với sự hậu thuẫn từ Trung Quốc, ASEAN và phương Tây, Chính phủ Liên hiệp của Cộng hòa Dân chủ Campuchia, do Khmer Đỏ khống chế về mặt quân sự, sẽ giữ được ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc và kéo dài cuộc xung đột chống lại Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Việt Nam và Liên Xô hậu thuẫn trong thập kỷ tiếp theo.

Lãnh đạo tối cao Trung Quốc Đặng Tiểu Bình coi việc Việt Nam tấn công một trong số ít đồng minh trung thành của họ, Campuchia, là một phần trong âm mưu của Liên Xô nhằm bao vây Trung Quốc. Để đối phó với cuộc tấn công Campuchia của Việt Nam, vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, mười bốn (14) sư đoàn Trung Quốc với số lượng khoảng 200.000 quân đã xâm lược miền Bắc Việt Nam. Vào thời điểm họ rút đi một tháng sau đó, cả hai bên đã phải gánh chịu thương vong về quân sự lên tới hàng chục nghìn người và các tỉnh biên giới của Việt Nam với Trung Quốc trở nên hoang tàn. Có tới một triệu người gốc Hoa phải bỏ chạy khỏi Việt Nam, và thậm chí ngày nay mối quan hệ giữa hai đồng minh ban đầu vẫn chưa được hàn gắn hoàn toàn.

Một lính biên phòng Việt Nam, thiệt mạng trong một cuộc tấn công tại Đồng Đăng, biên giới Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Ảnh: Jean-Pierre Gallois/AFP.

Các binh sĩ của một đơn vị pháo binh lực lượng vũ trang Việt Nam chống quân xâm lược Trung Quốc dọc theo đường biên giới dài 230 km của tỉnh Lạng Sơn vào ngày 23/2/1979. Ảnh: AFP.

Quan hệ giữa Bắc Kinh và Mátxcơva bắt đầu rạn nứt ngay từ năm 1956 khi Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev có bài phát biểu bí mật tố cáo sự sùng bái cá nhân của Stalin, mà Chủ tịch Mao Trạch Đông coi đó là đòn tấn công cá nhân vào thương hiệu chủ nghĩa cộng sản của ông. Trong suốt những năm 1960, khi các lực lượng Liên Xô và Trung Quốc lâm vào một số cuộc giao tranh biên giới của riêng họ, hai nước cũng tranh giành ảnh hưởng trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, với việc Liên Xô cung cấp vũ khí tiên tiến và Trung Quốc cung cấp tiếp liệu dân sự và vũ khí hạng nhẹ cho các lực lượng Bắc Việt.

Trong suốt cuộc chiến, người Việt Nam đã cố gắng duy trì thế quân bình giữa Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng quan hệ Trung-Việt xuống dốc nhanh chóng vào năm 1977 khi Khmer Đỏ, một đồng minh của Trung Quốc, bắt đầu các cuộc tấn công phục quốc vào Đồng bằng Sông Cửu Long, và các cuộc đàm phán biên giới Trung-Việt đổ vỡ vào cuối năm đó.

Việc Việt Nam quốc hữu hóa không đúng lúc 30.000 doanh nghiệp ở miền Nam vào tháng 3 năm 1978 và thống nhất tiền tệ của nước này vào tháng 5 năm 1978 làm dấy lên mối nghi ngờ của Trung Quốc cho rằng Việt Nam đang nhắm vào cộng đồng gốc Hoa một cách bất công – nhiều người trong đó là chủ doanh nghiệp. Hành động dứt khoát với Trung Quốc diễn ra khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Liên Xô đứng đầu vào tháng 6 năm 1978. Trung Quốc đình chỉ tất cả viện trợ cho Việt Nam vào ngày 3 tháng 7 và đóng cửa biên giới chung của hai nước vào ngày 11 tháng 7 năm đó.

Việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam bảy tháng sau đó, diễn ra chỉ một tháng sau chuyến thăm Mỹ của Đặng Tiểu Bình để bình thường hóa quan hệ, chủ yếu là để cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng chung tay với Mỹ để kiềm chế Liên Xô.

Đó là một động thái dường như vi phạm nguyên tắc quí báu của thuyết cân bằng quyền lực theo chủ nghĩa Hiện thực. Trong chừng mực Liên Xô vẫn yếu hơn Mỹ trong suốt Chiến tranh Lạnh, việc người Trung Quốc giúp Mỹ đánh bại Liên Xô và và thống trị toàn cầu dường như là thiếu khôn ngoan.

Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba (danh xưng ưa thích của nhiều học giả về các cuộc xung đột liên quan giữa Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc từ năm 1979 đến năm 1989) đã khiến các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa Hiện thực tranh nhau sửa đổi lý thuyết lâu đời này. Trong số những phát kiến phổ biến nhất là lý thuyết “cân bằng mối đe dọa” của nhà khoa học chính trị Harvard, Stephen Walt, cho rằng Đặng cảm thấy bị đe dọa bởi Liên Xô nhiều hơn bởi Mỹ, mặc dù sức mạnh của Mỹ là lớn hơn.

Đóng góp lớn của Walt nằm trong việc phân biệt giữa nhận thức về quyền lực và về mối đe dọa với các phép đo khách quan về quyền lực. Ngày nay, khi biết rằng vào năm 1979 sự sụp đổ của Liên Xô chỉ cách đó một thập kỷ thôi, thật khó có thể tưởng tượng vào thời điểm đó, hầu hết các nhà bình luận nổi tiếng lại tin rằng Liên Xô thực sự đang trỗi dậy so với Mỹ. Nhưng bối cảnh địa chính trị vào thời điểm đó trông rất khác.

Viết trên tờ Foreign Affairs vào tháng 1 năm 1978, chuyên gia nghiên cứu chính sách Helmut Sonnenfeldt lo ngại rằng “sức mạnh quân sự của Liên Xô tiếp tục phát triển và sự tham gia của Liên Xô vào các vấn đề thế giới, dù có dao động gì đi nữa, vẫn đang gia tăng”.

Như Fredrik Logevall và Campbell Craig đã cho thấy, các chính trị gia, nhà báo và học giả Hoa Kỳ đều tạo dựng được sự nghiệp nổi tiếng hay tai tiếng nhờ mối đe dọa được thổi phồng từ Liên Xô, bất chấp lợi thế kinh tế và công nghệ của Hoa Kỳ so với Liên Xô trong suốt Chiến tranh Lạnh. Nhưng người Mỹ không đơn độc khi đánh giá quá cao sức mạnh của Liên Xô trong những năm 1970 – Đặng Tiểu Bình và Thủ tướng Singapore lúc đó là Lý Quang Diệu chắc chắn cũng cảm thấy như vậy, và chính người Liên Xô cũng vậy.

Trong hồi ký của mình, Lý Quang Diệu nhớ lại: “Khi tôi đến thăm Liên Xô vào tháng 9 năm 1970 và gặp Thủ tướng Kosygin tại biệt thự nghỉ dưỡng của ông trên Biển Đen, các nhà lãnh đạo Liên Xô khoa trương và quyết đoán, tin tưởng rằng tương lai thuộc về họ.”

Ngược lại, vào ngày 15 tháng 7 năm 1979, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã đọc một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất của mình, trong đó ông nói về “một cuộc khủng hoảng lòng tin” đe dọa sự “thống nhất về mục đích” của quốc gia đang chao đảo của ông.

Trên khắp thế giới, vào năm 1979 đã có một nhận định đều khắp rằng trên bàn cờ thế giới, Liên Xô đang có được mọi thứ họ muốn, còn Mỹ thì đang rút lui. Không những Mỹ phải chịu đựng sự nhục nhã khi rút quân khỏi Đông Dương năm 1973 chỉ để chứng kiến đồng minh của mình rơi vào tay Cộng sản vào năm 1975, mà người Mỹ dường như còn mất dần quyền kiểm soát ở những nơi khác.

Trong cuộc đảo chính quân sự năm 1974 ở Ethiopia và cuộc chiến sau đó với Somalia ở Ogaden năm 1977-1978, cũng như cuộc nội chiến năm 1975 ở Angola, những nhà cách mạng thân Liên Xô đã giành được vị trí quan trọng ở Châu Phi với sự trợ giúp của lực lượng viễn chinh Cuba. Càng ngày càng lo sợ, Mỹ và các đồng minh trên toàn thế giới ngày càng phải dùng đến bạo lực đàn áp những người cánh tả, bao gồm cả cuộc đảo chính năm 1973 chống lại Tổng thống được bầu một cách dân chủ Salvador Allende của Chile và vụ thảm sát năm 1976 các nhà hoạt động cánh tả tại Đại học Thammasat ở Bangkok, Thái Lan.

Jimmy Carter (trái) và Leonid Brezhnev (phải) nói chuyện trước khi ký Hiệp ước SALT II vào ngày 18/6/1979 tại Hofburg Place ở Vienna, Áo. Ảnh: Votavafoto/AFP.

Bất chấp bạo lực phản động này, năm 1979 dường như là điểm đỉnh đối với Đế quốc Liên Xô và là điểm thấp nhất đối với Mỹ, và không chỉ vì Trung Quốc đã thất bại trong việc đánh bật Việt Nam khỏi việc chiếm đóng Campuchia vào tháng 3 năm 1979.

Vào ngày 3 tháng 2 năm 1979, Vua của Iran, một đồng minh lâu năm của Mỹ, buộc phải rời khỏi đất nước. Đến tháng 11, một chế độ thần quyền đã được thiết lập và 52 người Mỹ bị bắt làm con tin khi sinh viên xông vào Đại Sứ quán Mỹ ở Tehran. Cách mạng Iran sẽ gây bất ổn nghiêm trọng cho nền kinh tế toàn cầu, gây ra cuộc khủng hoảng dầu lửa, một cuộc khủng hoảng sẽ trở nên trầm trọng hơn do sự bùng nổ vào năm sau của một cuộc chiến kéo dài một thập kỷ giữa Iran và Iraq. Không lâu sau đó, và trước hôm Giáng sinh 1979, quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan và bắt đầu cuộc chiếm đóng ở đó kéo dài mười năm. Trong khi đó, tại sân sau của chính nước Mỹ, những nhà cách mạng thân Liên Xô đã giành quyền kiểm soát Nicaragua và bắt đầu cuộc nội chiến kéo dài một thập kỷ ở El Salvador.

Nhìn chung, năm đó được coi là một sự sỉ nhục đối với Carter và cả nước Mỹ khiến cho ông ấy sẽ sớm bị Ronald Reagan thay thế bằng một chiến thắng long trời lở đất trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1980.

Nhưng bất chấp nhận thức về sự thành công vượt trội của Liên Xô và sự mất phương hướng của Mỹ, năm 1979 cuối cùng vẫn chứng tỏ là năm sẽ đảo ngược vận mệnh ngoại giao và quân sự của Liên Xô.

Việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia và Liên Xô chiếm đóng Afghanistan đều là những thành công quân sự ban đầu nhưng lại trở thành vũng lầy rất tốn kém cho khối Liên Xô, điều này cuối cùng sẽ buộc cả hai nước phải từ bỏ nền kinh tế hoạch định hoàn toàn vào giữa những năm 1980.

Năm 1979 cũng sẽ báo trước một kỷ nguyên mới khi xung đột sắc tộc và giáo phái giành vị trí hàng đầu để cuối cùng làm lu mờ các đường rạn nứt ý thức hệ của Chiến tranh Lạnh. Vào tháng 6, Giáo hoàng John Paul II đã về thăm quê hương Ba Lan, kích thích một sự hồi sinh đức tin chưa từng có tại quốc gia Cộng sản này, và có lẽ đã thúc đẩy sự ủng hộ cho công đoàn Đoàn kết độc lập – được thành lập một năm sau đó và đóng vai trò trung tâm trong sự sụp đổ của chế độ Cộng sản.

Vào ngày 27 tháng 8 năm 1979, Huân tước Mountbatten, một thành viên nổi bật của hoàng gia Anh, bị các thành viên Quân đội Cộng hòa Ireland ám sát, làm gia tăng nghiêm trọng bạo lực giáo phái giữa người Công giáo và người Tin lành ở Ireland và Vương quốc Anh, một thời kỳ được gọi là “những rắc rối.”

Và chính trong việc thành lập một chế độ thần quyền hiện đại ở Iran và trên các chiến trường Afghanistan, Hồi giáo chính trị một lần nữa trở thành một lực lượng được tính đến trên sân khấu thế giới, dẫn đến ‘Cuộc chiến chống khủng bố’ tồi tệ nhiều thập kỷ sau đó.

Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba cũng là một cuộc xung đột giữa các đồng minh ý thức hệ rõ ràng có nguồn gốc từ giấc mơ của Pol Pot là khôi phục lại vinh quang của Đế quốc Khmer bằng cách chiếm lại Đồng bằng Sông Cửu Long từ tay Việt Nam. Điều cấp thiết là khi ghi nhớ điều đó ngày nay, chúng ta phải nhận thức được bối cảnh toàn cầu mà cuộc chiến ấy đã xảy ra. Đó là một trong số lượng lớn các cuộc xung đột quan trọng mang tính đặc trưng cho năm 1979, một năm có lẽ còn nhiều biến động và quan trọng hơn năm 2020 trong việc định hình tiến trình lịch sử thế giới.

Vũ Minh Hoàng là nhà sử học ngoại giao về Đông Nam Á thời Chiến tranh Lạnh và hiện đang thỉnh giảng Khoa Lịch sử và Việt Nam học tại Đại học Fulbright Việt Nam. Ông lấy bằng Tiến sĩ Lịch sử tại Đại học Cornell vào năm 2020 và có bằng Cử nhân về Quan hệ Quốc tế và Lịch sử từ Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London.

V.M.H.

Dịch giả gửi BVN

This entry was posted in Chính trị thế giới. Bookmark the permalink.