Để trở thành dân tộc lớn

(Nhân bài viết “Góp ý kiến Đại hội XI: Trách nhiệm lịch sử của Nguyễn Trung)

Cách đây không lâu, khi bàn về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, trong cộng đồng blogger Việt Nam nhiều người đã đặt ra câu hỏi Liệu chúng ta đã bao giờ dám thể hiện mình là một dân tộc lớn?

Nếu hiểu “dân tộc lớn” theo nghĩa lành mạnh là một dân tộc hùng cường, thân thiện với thế giới và có tiếng nói được thế giới tôn trọng chứ không phải với hàm ý sô vanh cực đoan thì liệu có thể nói rằng chúng ta cũng đã từng có những cơ hội để trở thành một dân tộc lớn?

Nhiều người đã nghĩ rằng chúng ta từng có những cơ hội đó, ít nhất là vào năm 1945 ngay sau khi chủ nghĩa phát xít đầu hàng và vào năm 1975 khi  Tổ quốc thống nhất, giang sơn thu về một mối.

Vậy thì điều kiện nào để chúng ta có lại được những cơ hội như vậy? Theo tôi đó là khi chúng ta không bị trói buộc vào bất kỳ một ý thức hệ lạc hậu nào để đến nỗi tự đánh mất đi khả năng tư duy độc lập.

Việt Nam đã bao giờ độc lập về ý thức hệ với Trung Quốc?

Nếu hiểu  ý thức hệ không chỉ theo nghĩa hẹp là  đi theo TBCN hay XHCN thì, người viết bài này thiển nghĩ rằng trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc chúng ta chưa bao giờ ta độc lập với người TQ về ý thức hệ, cho dù tại nhiều thời điểm trong lịch sử chúng ta độc lập với họ về chủ quyền lãnh thổ. Trước đây là Nho giáo và các lề thói phong kiến khác. Bây giờ thì ít nhất là ở cấp nhà nước, Việt Nam vẫn lấy Trung Quốc làm hình mẫu để đi theo trên cơ sở một ý thức hệ (mặc dù chỉ là mượn danh) mà nguồn gốc của nó đều không phải xuất phát từ cả Trung Quốc và Việt Nam.

Chính vì  cái sự “chia sẻ” như vậy mà sau các cuộc chiến tranh giữ nước, vua tôi nước Nam vẫn cứ phải bày đặt chuyện triều cống “thiên triều” cho dù chúng ta có giành được những chiến thắng vang dội để kết thúc chiến tranh. Các nhà sử học của ta luôn cho rằng đó là sách lược đúng để giữ hòa khí đối với nước lớn. Quan điểm này dường như cũng đang chi phối chính sách đối ngoại của nhà nước cho đến nay mà không ít người vẫn cho là khôn ngoan.

Phải chăng quan điểm này xuất phát từ tư duy luôn coi Việt Nam là nước nhỏ yếu so với Trung Quốc và hình như cho đến nay hầu như ít ai dám có suy nghĩ vượt khỏi tầm tư duy đó.

Về diện tích lãnh thổ thì rõ ràng Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc rất nhiều. Chúng ta lại không may mắn khi ở liền kề với “anh bạn” luôn luôn có dã tâm thôn tính.

Nhưng đâu phải chỉ có Việt Nam mới nhỏ hơn Trung Quốc và liền kề với Trung Quốc. Hãy nhìn Nhật Bản, Hàn Quốc – các nước này cũng ở bên cạnh TQ và có diện tích lãnh thổ tương tự Việt Nam nhưng tôi không nghĩ họ luôn tự coi mình là nhỏ yếu hơn so với Trung Quốc.

Trong thực tế thì Trung Quốc cũng chưa bao giờ dám coi các nước đó là nhỏ yếu. Điều đó được thể hiện trong thực tế khi Trung Quốc luôn luôn mạnh tay hơn với Việt Nam trong những tranh chấp trên biển. Họ cũng chỉ bắn giết, bắt bớ ngư dân của chúng ta chứ chưa bao giờ dám làm điều đó đối với Nhật Bản hay các nước láng giềng khác.

Trong lịch sử, người Trung Quốc có truyền thống sợ kẻ mạnh hơn và bắt nạt kẻ yếu hơn mình.

Nhưng oái oăm thay, trong số các nước láng giềng mà TQ có tham vọng về lãnh thổ, Việt Nam là nước duy nhất có cùng quan điểm ý thức hệ với họ ở cấp vĩ mô.

Có lẽ  chính sự “chia sẻ” này làm cho Việt Nam dường như chưa bao giờ thoát ra khỏi cái bóng của Trung Quốc để luôn luôn phải “cầu hòa” trong thế yếu vì sợ ném chuột thì vỡ cái bình chung cùng thờ, mà không dám tư duy xa hơn rằng chúng ta hoàn toàn có đầy đủ khả năng và điều kiện để có được một cái “bình” của riêng mình, độc lập và ưu việt hơn hẳn so với Trung Quốc. Và chỉ như vậy chúng ta mới có cơ hội để phấn đấu trở thành một nước không nhỏ và không yếu, ít ra là đối với Trung Quốc.

Trung Quốc hiện biết rất rõ điểm yếu này của Việt Nam và đang tận dụng nó một cách tối đa.

Tại sao luôn luôn phải  đi sau?

Nhưng dân tộc Trung Hoa, vốn cũng là một dân tộc vĩ đại và thông minh nên tôi tin rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ thoát ra khỏi những ràng buộc về bất kỳ ý thức hệ lạc hậu nào để bắt kịp với thế giới văn minh, để bước chân vào đúng con đường mà các nước văn minh trên thế giới đang đi mà không phải loay hoay mày mò tìm ra một con đường “ưu việt” nào khác . Nếu không thay đổi như vậy thì dân tộc Trung Hoa cũng không bao giờ trở thành “dân tộc lớn” theo nghĩa lành mạnh của cụm từ này để có đủ phẩm chất trở thành cường quốc lãnh đạo thế giới như ước mơ của họ. Tôi nghĩ người Trung Hoa thừa biết điều này.

Nhưng dù Trung Quốc biết mình sẽ phải thay đổi thì họ cũng không bao giờ muốn Việt Nam thay đổi trước họ. Kinh nghiệm lịch sử trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã chứng tỏ điều đó, chẳng hạn như việc Việt Nam phải để Trung Quốc gia nhập WTO trước cũng chỉ là một ví dụ cụ thể trong rất nhiều những ví dụ về những “quả lừa” mà họ đã áp dụng cho Việt Nam.

Vấn  đề là những người đang nắm các cương vị lãnh đạo có đủ tâm và đủ tài để độc lập về tư duy hay không, có bao giờ trăn trở rằng tại sao chúng ta chưa bao giờ dám vượt lên trước mà luôn luôn liếc mắt trông chừng để bám theo sau, nghĩa là chỉ muốn làm cái bóng của anh bạn láng giềng?

Chẳng lẽ đến bây giờ, sau bao nhiêu kinh nghiệm cay đắng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc mà chúng ta vẫn không dám tự mình thay đổi trước một cách ngoạn mục và bất ngờ để “anh bạn láng giềng” phải tâm phục khẩu phục mà chỉ dám (hoặc buộc phải) thay đổi sau khi “anh bạn” ấy đã và (chắc chắn)  sẽ thay đổi?

HH

HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

This entry was posted in Đảng CSVN. Bookmark the permalink.