“Cận huyết thống” trong khoa học và chánh trị

Nguyễn Văn Tuấn

Cận huyết thống (hay “inbreeding”) theo cách hiểu thông thuờng là những người trong dòng tộc kết hôn với nhau. Nhưng trong khoa học (và cả chánh trị) chữ này có một nghĩa hơi khác, và đó là tín hiệu xấu cho khoa học.

Cận huyết thống là hiện tượng những người trong dòng tộc kết hôn với nhau. Hiện tượng này rất phổ biến trong thời phong kiến ở các vương triều từ Tây sang Đông. Ở Việt Nam, triều đại Nhà Trần nổi tiếng về inbreeding vì các thành viên trong hoàng tộc lấy nhau. Khái niệm inbreeding sau này được lan truyền sang các lĩnh vực như khoa học (scientific inbreeding) và chánh trị (political inbreeding), nhưng ít ai để ý đến tác hại của nó.

Cận huyết thống trong khoa học

Hiện tượng inbreeding thường phổ biến trong khoa học và đại học ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, tuy chưa có nghiên cứu, nhưng qua quan sát nhiều ca tiêu biểu cho thấy tình trạng inbreeding khoa bảng cũng khá phổ biến. Nhiều người được giữ lại để nghiên cứu hay giảng dạy sau khi đã tốt nghiệp. Đa số người được giữ lại rất tự hào vì đó là tín hiệu cho thấy họ học giỏi và có tài nên mới được trọng dụng. Nhưng đó là hiện tượng cận huyết thống trong khoa học.

Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả tại các đại học theo hệ thống của Nga (Liên Xô cũ) và Tàu cũng có tình trạng ‘cận huyết thống’. Ở Nga, thống kê cho thấy gần 90% những người tốt nghiệp Tiến sĩ ở lại nơi họ được đào tạo, chỉ có 10% sang các đại học khác. Ở Mã Lai và Ấn Độ, đa số những người tốt nghiệp Tiến sĩ ở lại trường tiếp tục làm việc, và trong nhiều trường hợp họ ở đó suốt đời. Chưa ai biết ở VN tình trạng cận huyết thống trong khoa bảng bao nhiêu, nhưng trong ngành y thì hiện tượng này khá phổ biến.

Hiện tượng cận huyết thống có tác hại tiêu cực đến khoa học. Cũng những đứa trẻ từ những cuộc hôn nhân đồng huyết thống thường có nguy cơ dị tật bẩm sinh cao và giảm trí thông minh (IQ), trong khoa học inbreeding làm cho khoa học tù túng và khó thoát ra khỏi cái hộp bằng những ý tưởng đột phá.

Người được ‘sanh’ ra trong hệ inbreeding khoa học không thoát ra được cái suy nghĩ trong “gia đình”, nên khó có thể đột phá. Ngay cả cách họ phát biểu nghe cũng… quen quen. Đã có nghiên cứu cho thấy những đại học có tỉ lệ inbreeding cao thường có năng suất khoa học thấp, và khó có đột phá.

Do đó, để phát triển tốt và đột phá người ta tránh tình trạng inbreeding. Đó chính là lí do tại sao các đại học trong khối ‘phương Tây’ mà đứng đầu là Mĩ rất kị inbreeding. Ở Úc, khi sinh viên tốt nghiệp Tiến sĩ, họ được khuyến khích đi làm nghiên cứu Hậu Tiến sĩ ở một nơi khác, càng xa càng tốt. Khi xong Hậu Tiến sĩ, họ có thể quay về trường cũ hay một trường khác. Qua những ‘hôn phối’ khoa bảng outbreeding như thế, các đại học Úc lúc nào cũng có ‘máu mới,’ có khi dẫn đến những đường hướng đột phá.

Khi sinh viên trong lab tôi tốt nghiệp, tôi thường khuyến khích họ đi một nơi khác. Có người hiểu thì ok, nhưng người không hiểu thì nghĩ tôi đuổi họ và không chịu giúp đỡ. Không phải, tôi chỉ muốn họ ‘bay’ ra thế giới bên ngoài để biết và thấy và trải nghiệm, để ‘lọc máu’ trước khi quay về chốn cũ. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy quả thật sau khi đã ra ngoài thì sẽ có nhiều cách suy nghĩ mới (chưa nói đúng sai) và trưởng thành hơn.

Khi Đại học New South Wales tìm Hiệu trưởng (vice-chancellor / president) họ phải quảng cáo khắp nơi trên thế giới. Phải mất hơn 1 năm và chi nhiều tiền quảng cáo để tìm được một người thích hợp. Họ làm như vậy là vì muốn có một người hoàn toàn mới, mới từ cách suy nghĩ về viễn kiến và sứ mệnh đại học, và nhất là “người ngoài”. Họ không muốn có tình trạng “cận huyết thống” trong khoa bảng.

Cận huyết thống trong chánh truờng

Trong chánh trường ở Việt Nam, tình trạng inbreeding rất rõ rệt. Như đề cập trên, hiện tượng này (“cha truyền con nối”) đã có từ thời xa xưa, chớ chẳng phải mới đây. Ngày nay, tình trạng này càng ngày càng phổ biến và có xu hướng quay ngược về thời phong kiến. Mới đây, Bộ Nội vụ cho biết có 9 địa phương có hiện tượng “cả họ làm quan”. Tôi nghĩ trong thực tế thì phải là tất cả địa phương (chớ không phải 9) trên đất nước Việt Nam đều có hiện tượng cận huyết thống này.

Tiêu biểu nhứt có lẽ là tỉnh Hà Giang, nơi mà các quan chức cao cấp đều là người trong đại gia đình. Nhưng từ trung ương đến địa phương đều có hiện tượng 5C (“con cháu các cụ cả”), và ví dụ thì nhiều vô kể. Ngay cả bây giờ, đề câp đến bất cứ ai trong bộ máy cầm quyền, đều dễ thấy họ có quan hệ huyết thống với ba, má, chú, bác, dì, dượng, v.v. trong thế hệ này hay thế hệ trước. Ngay cả những người đang tuyên bố dẹp chế độ cha truyền con nối bản thân họ cũng là 5C.

Có thể nói hiện tượng 5C chính là cận huyết thống rõ rệt nhứt và bắt nguồn ngay từ lúc còn nhỏ. Ngay từ tuổi thiếu niên đã có hẳn một thiết chế xã hội và đầy đủ ban bệ cho giới cầm quyền. Đến tuổi thanh niên và sau thanh niên, có cả một hệ thống nhận dạng, đào tạo, và bồi dưỡng những người lãnh đạo. Nhưng tất cả họ đều học một học thuyết duy nhất, gần như là một tôn giáo; họ không được tham khảo các học thuyết khác hay có tham khảo thì cũng qua loa, không đến nơi đến chốn. Họ giao du và ‘kết hôn chánh trị’ với những người trong cùng ‘tôn giáo’ (và điều này cũng dễ hiểu). Do đó, họ không có khả năng suy nghĩ ra ngoài cái giáo lí họ được hun đúc, hoặc nếu có thì suy nghĩ của họ cũng bị méo mó như di tật bẩm sinh.

Nếu cận huyết thống có tác động xấu đến con người và khoa học, thì tương tự, những lãnh đạo được sản sinh qua hệ thống cận huyết thống chánh trị cũng bị… dị tật. Điều này có thể thấy qua cách họ phát biểu rất giống nhau, từ chữ đến câu văn và ý tưởng đều giống giống nhau, cứ như là rập khuôn. Ngay cả khi phát biểu linh tinh họ cũng nói rất giống nhau! Ngay cả trang phục cũng giống nhau. Bắc Hàn là một trường hợp tiêu biểu.

Khác với hệ thống inbreeding ở Việt Nam, các nước phương Tây thì theo hệ thống ‘outbreeding’. Trong các thể chế dân chủ phương Tây, việc nhận dạng và đào tạo lãnh đạo có thể nói là khá “ngẫu nhiên.” Họ làm qua bầu cử, và người trúng cử có thể xem là … ngẫu nhiên (theo cách hiểu… chọn mẫu), và kết quả dao động từ năm này sang năm khác. Kì này ông A trúng cử, kì sau bà B, kì tới có thể là bà C, và họ thường không có quan hệ huyết thống với nhau.

Khi một Viện đại học phương Tây cần bổ nhiệm Hiệu trưởng, họ quảng cáo khắp thế giới, ai cảm thấy đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn thì đệ đơn. Người được bổ nhiệm có khi rất… ngẫu nhiên. Khó đoán trước người lãnh đạo đến từ đâu. Nguyên tắc outbreeding như thế được áp dụng triệt để từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất, từ cấp khoa đến cấp trường, trong đại học.

Nhưng tôi nghĩ cách bổ nhiệm outbreeding như thế rất khó xảy ra ở Việt Nam. Lí do là vì thể chế bên nhà đã qua quá nhiều thế hệ inbreeding chánh trị qua những uyển ngữ như “qui hoạch”, “công tác cán bộ”, nên khó có thể có những cuộc hôn phối chánh trị và khoa học với người ngoài bộ lạc (hay outbreeding). Và, do đó chúng ta không thể kì vọng những đột phá từ Việt Nam.

Không có mô tả ảnh.

Trong hình ảnh có thể có: 9 người

N.V.T.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

This entry was posted in Cận huyết chính trị, Cận huyết khoa học, Thể chế cận huyết. Bookmark the permalink.