Định lý chính trị Việt Nam: Điều kiện ắt có và đủ để có hòa hợp dân tộc là Nhà nước Việt Nam phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

Việt Nam Dấu Yêu
(vietnam.dauyeu@yahoo.com)

Bài này viết ra để chứng minh định lý trên chứ không nhằm mục đích nào khác.

Tôi là ai? – Trước hết xin xác minh tôi không phải là một chuyên gia chính trị mà chỉ là một Phật tử yêu Đạo pháp và Dân tộc từ khi còn tấm bé cho đến bây giờ, lúc sắp sửa lên bàn thờ ngồi. Do lòng yêu nước suốt đời đó mà tôi tự đặt tên mình là Việt Nam Dấu Yêu. Tuy vậy tôi vẫn là người thật nói chuyện có sự thật mà bất cứ ai cũng có thể trao đổi với tôi qua email vietnam.dauyeu@yahoo.com. Tôi lấy tên “Việt Nam Dấu Yêu” bởi đó là bản chất của tôi và tôi tin rằng cũng là bản chất yêu nước của hầu hết người dân Việt Nam từ ngàn xưa đến nay. Dưới mắt tôi không có đồng bào nào là “thứ phản động” hoặc thuộc “thế lực thù địch” cả. Tất cả đồng bào ta đều yêu nước, đều có thể cùng nắm tay nhau bảo vệ và xây dựng đất nước.

Dân tộc ta muốn điều gì nhất?

Xin thưa dân tộc Việt Nam muốn Độc lập Tự do nhất. Người miền Bắc hay người miền Nam đều muốn như vậy. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã xác định khát vọng đó qua câu nói: “Không có gì quí hơn Độc lập Tự do”. Dầu ông Hồ bị mang tiếng là người đã bán nước cho Nga Tàu, bởi sự du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Nhưng suốt quãng đời lãnh đạo của Bác Hồ, miền Bắc vẫn luôn luôn giữ quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bởi ông Hồ Chí MInh, cũng như bao tiền nhân lãnh đạo từ xa xưa đều rõ biết rằng: Điều kiện tất yếu để đất nước Việt Nam nhỏ bé, có thể sống còn bên cạnh một nước Trung Quốc luôn luôn tham lam, là phải Đoàn kết, Đại đoàn kết, không thể bị chia rẽ. Nếu đổi quốc hiệu qua Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn nước Việt Nam sẽ bị chia rẽ rồi Trung Quốc có thể thao túng như tình trạng hiện nay.

Khát vọng của nhân dân Việt Nam là Độc lập Tự do chứ không phải chủ nghĩa cộng sản

Vì khát vọng muốn đất nước Độc lập Tự do từ thời Pháp thuộc mà toàn dân Việt Nam đã không ngần ngại gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam để cùng giải phóng đất nước ra khỏi sự nô lệ của thực dân Pháp. Rồi sau này cũng vì khát vọng mong cho đất nước thống nhất, để hòa giải đoàn kết dân tộc, mà nhiều người yêu nước miền Nam đã không ngần ngại hổ trợ cho Đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất hai miền. Chiến thắng đánh Pháp đánh Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, hoàn toàn nhờ vào nội lực yêu nước của nhân dân Việt Nam chứ không phải vì sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản. Biết bao nhiêu quốc gia khác lớn hơn Việt Nam, như Ấn độ, Nam Dương, và nhiều nước Phi châu cũng đã thoát ra khỏi các đế quốc thuộc địa mà đâu cần sử dụng đến chủ nghĩa cộng sản và không có sự tương tàn giết chết hàng triệu thanh niên.

Còn chủ nghĩa cộng sản không thể có hòa hợp dân tộc. Bởi vì:

1. Chủ nghĩa cộng sản không tôn trọng Độc lập, Tự do;

2. Chủ nghĩa cộng sản không thiết tha hòa hợp dân tộc;

3. Chủ nghĩa cộng sản làm lợi cho Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam.

1) Sau khi Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông đã đào tạo được một số cuồng đồ tôn thờ chủ nghĩa cộng sản, thì số cuồng đồ người Việt ở trình độ “lý luận cấp cao” của chủ nghĩa cộng sản đã không còn cho rằng Độc lập, Tự do là khát vọng của dân ta nữa, mà họ lại cho rằng “Tiến lên XHCN là khát vọng của nhân dân ta” (xin click chuột vào hàng vừa rồi để nghe những gì họ nói). Họ đã định nghĩa lại “Yêu nước là yêu XHCN” có nghĩa rằng tổ tiên ta từ ngàn xưa chưa phải là người yêu nước như họ. Thế rồi họ bắt Quân đội Nhân dân Việt Nam, mỗi khi chào cờ phải hô to lời thề: “Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước XHCN, tinh thần quốc tế vô sản” (lời thế số 3). Thậm chí họ còn bắt cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải quy y thêm Marx Lenin bằng cách đổi phương châm “Đạo pháp – Dân tộc” thành “Đạo pháp – Dân tộc – CNXH”.

Dân tộc Việt Nam làm sao có thể hòa hợp được trong một chế độ độc tài chuyên chính khi chỉ cho phép một bộ phận thiểu số, phải là đảng viên cộng sản, mới có quyền lãnh đạo đất nước. Không một bậc hiền tài trí tuệ nào có thể tham gia vào hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của đất nước, nếu không là đảng viên cộng sản. Thậm chí, nếu có lời phê phán chế độ, họ có thể bị kết tội “phản động” hoặc cho thuộc vào “thế lực thù địch” hoặc bị kết tội “tuyên truyên chống chính quyền nhân dân”, rồi có thể bị tù đày hết cả cuộc đời thanh xuân. Người cộng sản cũng đâu phải là thần thánh mà đã hết Tham, Sân, Si. Khi tham, sân, si vẫn còn đủ, thì quyền lực độc tài chuyên chính sẽ cho phép họ tha hồ Tham (tham nhũng), tha hồ Sân (đàn áp những người chống đối), và tha hồ Si (bịt miệng, bịt mắt, bịt tai những người muốn phê phán chế độ). Từ sự lạm dụng quyền lực đó mới sản sinh ra cái tệ nạn mà ai cũng đã thấy như ngày hôm nay: 1) Hậu duệ 2) Liên hệ 3) Tiền tệ 4) Chót bẹt là Trí Tuệ.

2) Với hầu hết các nước khác, cũng từng có chia rẽ dân tộc, như Mỹ, Đức, thì sau khi đất nước họ thống nhất, chỉ một năm sau là người dân có thể hòa hiệp cùng chung sức xây dựng đất nước hùng cường. Thế mà dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ, đã 45 năm rồi, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vẫn coi những người không thích chủ nghĩa cộng sản, từ bỏ đất nước ra đi, là thành phần “phản động”, là “thế lực thù địch”. Cho dù những người xa quê này bây giờ yêu nước, nhớ nước còn hơn lúc ở quê nhà. Cho dù họ đã từng bỏ nhiều tiền bạc gởi về cứu đói quê hương sau năm 1975. Hầu hết số người miền Nam bỏ nước ra đi, bây giờ sẵn sàng hòa hợp dân tộc để cùng chung lo xây dựng đất nước hùng mạnh, họ không còn thù hận hay còn mặc cảm thất trận gì đối với người miền Bắc nữa. Bởi họ đã có cuộc sống cao hơn, ấm no, tự do hơn, và con cái họ cũng đã được đầu tư vào các hệ thống giáo dục cấp cao của thế giới.

Lý do duy nhất mà người Việt Nam đã bỏ nước ra đi còn uất hận với chế độ cộng sản là vì chế độ này đã và đang làm lợi cho Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ quê hương Việt Nam của họ. Trong khi Trung Quốc vẫn xâm lấn lãnh hải ở Biển Đông hằng ngày như cơm bữa, thì chế độ cộng sản Việt Nam vẫn đàn áp, bỏ tù, ngăn cấm những người dân Việt Nam biểu tình phản đối Trung Quốc. Các lãnh tụ cộng sản Việt Nam mỗi lần thăm viếng Trung Quốc lại luôn luôn cam kết: “Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như một luôn coi trọng việc gìn giữ, kế thừa và phát huy tình đoàn kết hữu nghị truyền thống Việt-Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng nhiều thế hệ lãnh đạo tiền bối hai nước dày công vun đắp. Chủ trương, lập trường nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc”. (https://nhandan.com.vn/chinhtri/item/40849502-lam-sau-sac-hon-moi-quan-he-huu-nghi-truyen-thong-tot-dep.html). Điều đó chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam thực tâm chỉ muốn hòa hợp với Trung Quốc để giữ gìn “đại cục” quốc tế vô sản nhiều hơn là muốn hòa hợp với đồng bào ta.

3) Do tinh thần “Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước XHCN, tinh thần quốc tế vô sản” mà nhiều đảng viên cộng sản cao cấp, như Tố Hữu đã coi: “bên ni biên giới là mình / bên kia biên giới cũng tình quê hương” và không ngần ngại mở sự thông thương “núi liền núi, sông liền sông” với Trung Quốc, để cho Trung Quốc tha hồ xâm nhập Việt Nam từ cấp cao đến cấp thấp, để cho Trung Quốc bây giờ đã tha hồ thao túng Việt Nam trong cả 3 lãnh vực quan trọng: Chính trị, Kinh tế, và An ninh quốc gia như lời tố cáo của Thiếu tướng Công an Nhân dân Trương Giang Long (xin click vào tiêu đề để xem video). Ngay từ đầu khi tàu Trung Quốc bắt đầu đi vào lãnh hải Việt Nam, đâm chìm tàu cá và giết hại ngư dân Việt Nam thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn cố gắng bao che cho tội ác Trung Quốc, bắt các báo chí phải loan tin là “Tàu lạ”. Cũng bởi có tâm bao che cho Trung Quốc đó, mà những người Việt muốn biểu tình tố cáo sự xâm lược của Trung Quốc, như blogger Điếu Cày, đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam bắt bỏ tù và hành hạ một cách khốc liệt, cho dù anh ta từng phục vụ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam suốt 5 năm.

Vào năm 2014, khi giàn khoan HD981 của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam, mặc dầu toàn dân cả nước phẫn uất biểu tình phản đối, nhưng Quốc hội Việt Nam, lúc đó đang họp, cũng không hề có một tiếng phản đối Trung Quốc. Rồi sau khi Quốc hội Mỹ và bà Ngoại trưởng Hillary thời đó đều lên tiếng phản đối mãnh liệt để Trung Quốc phải rút giàn khoan đi, thì ông Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lúc đó, tại Hội nghị quốc tế Shangri La, lại lên tiếng bao che cho Trung Quốc rằng: “đó chỉ là chuyện nhỏ lục đục nhỏ giữa 2 anh em” (Việt-Trung) mà thôi. Tôi để ý rằng, hai cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng Cộng sản là Quốc hội Việt Nam và tờ báo điện tử Quân đội Nhân dân, qdnd.vn, họ không bao giờ lên tiếng phản đối Trung Quốc, ngay cả trong tháng 10 vừa qua, khi tàu Hải dương 8 của Trung Quốc ngang ngược tung hoành ở Bãi Tư Chính của Việt Nam. Điều đó nói lên gì? – Tại vì họ yêu “đại cục” Quốc Tế Vô Sản hơn là lo sợ cho sự mất nước.

Ngay vào thời điểm này, Trung Quốc càng đang ngang ngược hơn, bắt Việt Nam rút quân ra khỏi đảo Trường Sa. Ngày 17/4/2020 vừa rồi, Trung Quốc đã gởi cho Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một công hàm nói rõ: “Trung Quốc kiên quyết yêu cầu Việt Nam rút toàn bộ nhân sự vận hành và các cơ sở trên các đảo và bãi đá mà nước này xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp”. Do đâu mà Trung Quốc dám làm mạnh, dám coi thường luật pháp quốc tế đến như vậy? Dĩ nhiên Trung Quốc chưa dám đơn phương gây chiến với Việt Nam, bởi họ không thể tiên đoán phản ứng của Mỹ. Nhưng Trung Quốc tin rằng với sự áp đảo mạnh bạo như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam rồi cũng sẽ nhân nhượng để đồng thuận “Gác tranh chấp, cùng khai thác” với Trung Quốc để Trung Quốc có đầy đủ danh chính ngôn thuận hiện diện trường cửu ở Biển Đông. Lý do Trung Quốc tin chắc Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ nhân nhượng, bởi tất cả bà con thân thích của các đồng chí lớn trong đảng ta đang nắm trong tay các nguồn lợi kinh thế lớn, nhất là những nguồn lợi làm ăn với Trung Quốc. Nên họ chỉ muốn yên ổn tiếp tục làm ăn, không muốn sinh sự với Trung Quốc để có thể xảy ra chiến tranh và làm gián đoạn nguồn lợi tức của họ.

Trung Quốc đã thuyết phục được Philippines “Gác tranh chấp, cùng khai thác”, nếu Trung Quốc cũng thuyết phục được Việt Nam như vậy thì Malaysia cũng sẽ nối đuôi, và rồi đây Hải Quân Trung Quốc sẽ có cớ hiện diện thường trực trên toàn bộ Biển Đông để từ đó uy lực của Hải Quân Mỹ sẽ không còn được nước nào trong khu vực mặn nồng nữa, và rồi sẽ rút dần ra khỏi Biển Đông. Đó là thời điểm nước Việt Nam nói riêng và toàn bộ ĐNÁ nói chung sẽ bị Trung Quốc thôn tính mà không nước nào có thể đứng ra ngăn cản được. Cho nên kết luận của tôi là:

Nếu nước Việt Nam không từ bỏ chủ nghĩa cộng sản thì Việt Nam chỉ có mất nước chứ không thể có hòa hợp dân tộc

Tôi cũng xin minh xác điều này: Sự kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản không có nghĩa là kêu gọi lật đổ nhà cầm quyền hay thay đổi nhân sự, hay thay đổi cơ cấu của đảng lãnh đạo. Mà chỉ cần đảng lãnh đạo tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa cộng sản độc tài chuyên chính, để cho tất cả mọi người dân Việt Nam, không phân biệt thích hoặc không thích XHCN đều có thể cùng nhau chung sức xây dựng quốc gia, dựa trên tài và đức của mình. Cách thay đổi nhanh chóng nhất là đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành một tên khác, ví dụ Đảng Dân chủ cộng hòa (như tên nước trước đây) chẳng hạn. Tên đó rất có ý nghĩa: Hội tụ cả 2 triết lý chính trị, Dân chủ và Cộng hòa. Đó là cách “hạ cánh rất an toàn” cho Đảng Cộng sản Việt Nam để người dân Việt Nam không còn thù hận họ nữa. Dĩ nhiên khi Chủ nghĩa cộng sản Độc tài được từ bỏ, thì chế độ Dân chủ với tự do Ứng cử/Bầu cử sẽ được hình thành để loại bỏ nhanh chóng những kẻ đã bị hủ hóa và cũng để mọi nhân tài của dân tộc đều có cơ hội tham gia cùng nhau dựng nước và giữ nước. Nước Việt Nam sẽ thành một quốc gia Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Văn minh như mọi người dân lâu nay hằng mơ ước. Như vậy người cộng sản sẽ trở thành có công và được ghi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Ngoài ra, khi nghe tin Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, Trung Quốc sẽ bị rúng động. Sự kiện rúng động này còn lan tỏa và gây ngạc nhiên cho cả thế giới. Dân chúng Hong Kong nghe tin này sẽ thêm phấn khởi để đấu tranh quyết liệt hơn với Trung Quốc. Dân chúng Đài Loan cũng sẽ thêm phấn khởi trong sự đòi quyền độc lập với Trung Quốc, và cả dân chúng Tàu ở trong Đại Lục cũng sẽ rục rịch nổi lên đòi được Dân chủ Tự do như Việt Nam. Thế nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ không dễ gì nhượng bộ, bởi quyền lực và tham vọng của họ đã quá lớn lao. Do đó nước Tàu sẽ có thể đi đến đại loạn ở khắp nơi. Đó là lúc Bắc Kinh không còn tâm sức đâu để cố giữ Biển Đông nữa. Trung Quốc sẽ nhượng bộ và êm thắm rút ra khỏi Biển Đông, khi Việt Nam đã đoàn kết vững chắc với các nước khác như Mỹ, Nhật, Úc, Ấn, EU, Phi, Malaysia,… cùng quyết liệt đòi hỏi Trung Quốc phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Đó là lúc “bất chiến tự nhiên thành” như sấm ký Trạng Trình đã ghi.

Dầu sao đi nữa, dưới con mắt của một nhà Phật học thì chủ nghĩa cộng sản đúng là một thứ tà kiến không có gì phải luyến tiếc để từ bỏ nó. Tà kiến là một loại lý thuyết không đưa đến kết quả tốt đẹp như hứa hẹn để thuyết phục được người dân. Do đó các nước cộng sản rốt cuộc đều phải sử dụng Bạo lực để bắt ép người dân chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Cũng vì là một tà kiến, không có những sự thật tốt đẹp để chứng minh, lại còn sản sinh thêm nhiều điều tệ hại, cho nên chế độ cộng sản nào cũng áp dụng sự bưng bít che đậy, bóp nghẹt thông tin, đúng như Đức Phật đã nói ở trong Tăng Chi Bộ Kinh:

– Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ. Thế nào là ba?

Sở hành của nữ nhân, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Chú thuật của Bà-la-môn, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Tà kiến, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ.

– Này các Tỷ-kheo, ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tròn của mặt trăng, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tròn của mặt trời, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên thuyết, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu.

Tăng Chi Bộ Kinh, chương 3 pháp  (http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tangchibo/tangchi03-1116.htm)

Chủ nghĩa cộng sản không đưa đến kết quả tốt đẹp, bởi Marx đã chẩn bịnh sai và chữa bệnh sai về căn bệnh “bóc lột của xã hội”. Rốt cuộc không những đã không chữa được căn bệnh bóc lột lại còn làm cho xã hội đau khổ hơn đủ mọi cách. Marx lý luận: Xã hội bị bóc lột do xã hội có tư hữu tạo ra giai cấp. Cho nên cách chữa trị là dẹp bỏ tư hữu để không còn giai cấp, không còn sự bóc lột. Marx đã không thấy chính xác rằng nguyên do của sự Bóc lột là do lòng Tham của con người và sự thiếu luật pháp để bảo vệ quyền sống của con người. Bởi vậy trong xã hội cộng sản, khi quan chức vẫn còn lòng Tham lại có Quyền lực không có luật pháp nào ngăn cản nổi, con người còn bị quan chức bóc lột tàn khốc, không ai ngăn chận được. Trái lại, trong một xã hội có Đạo đức và có Luật pháp thì người giàu không những không bóc lột người nghèo mà còn làm từ thiện, tạo ra công ăn việc làm giúp đỡ cho người nghèo nhiều hơn ai hết. Ngoài ra, nhờ có khả năng Tư hữu, tích trữ được những gì làm ra, mà con người hơn con vật, không cần phải đi săn mồi hằng ngày, để được nhàn nhã hơn và có sự tiến hóa hơn về đời sống tâm linh. Nếu không có quyền Tư hữu mà phải chờ nhà nước cung cấp nhu yếu phẩm thì con người đâu khác gì những con vật nuôi chờ chủ cho ăn.

Cho nên từ sự muốn làm chủ Đời sống vật chất của Marx, đến sự muốn làm chủ Đời sống tinh thần (với sự bắt ép thiên hạ phải thích chủ nghĩa cộng sản) của Lenin, chủ nghĩa cộng sản đã thành một thứ chủ nghĩa tàn ác, gây khổ đau cho nhân loại hơn bất cứ một chế độ chính trị nào từ xưa tới nay. Các chế độ cộng sản đã giết người nhiều hơn bất cứ một đại nạn nào trong lịch sử của nhân loại. Trong quyển sách Death by Government xuất bản năm 1994, R. J. Rummel đã ước tính từ năm 1900 đến 1987 khoảng 110 triệu người bị giết bởi các các nhà cầm quyền cộng sản (trong đó dĩ nhiên có chế độ Pol Pot, một tập đoàn, muốn hồ hởi đưa Campuchia tiến nhanh lên XHCN theo chỉ đạo của Trung Quốc, không ngần ngại giết gần 1/3 dân số của chính đồng bào mình). Tổng số các nạn nhân chết vì các chế độ cộng sản cao hơn tổng số người đã bị chết trong Thế chiến II (ước tính là 70-85 triệu người, kể cả số thường dân chết do bom rơi đạn lạc hoặc do đói khát vì chiến tranh gây nên). Như vậy với người có Đạo đức, có Trí tuệ, và có lòng Yêu nước thì còn ngại ngùng gì mà chưa tử bỏ chủ nghĩa cộng sản?

Rất mong các bác Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc,

Các nhân vật trong Bộ Chính trị, trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Cùng các thành viên trong Quốc hội Việt Nam, các thành viên trong Mặt trận Tổ quốc, v.v.

Hãy sớm đồng lòng quyết định từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.

Để cho dân tộc Việt Nam sẽ bước qua một trang sử mới, huy hoàng hơn.

Dallas, Texas ngày 30/4/2020

V.N.D.Y.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Chủ nghĩa cộng sản. Bookmark the permalink.