Triệu Hằng
dịch
Ảnh minh họa: cdn.pixabay.
Tập Cận Bình có lý do thúc đẩy để phải tuyên bố chiến thắng đại dịch virus Vũ Hán và ra lệnh cho công dân trở lại làm việc. Nếu ông ta không khởi động lại nền kinh tế đất nước thì có thể ông ta sẽ cạn tiền tiêu.
Tất nhiên, ông Tập có thể cho in thêm tiền Nhân dân tệ với một số lượng bất kỳ, nhưng bên ngoài biên giới Trung Quốc không có nhiều người muốn dùng loại tiền đó vì nó không phải là loại tiền tệ tự do chuyển đổi (convertible currency).
Tình cảnh tài chính thảm khốc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có thể sẽ buộc Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phải sửa đổi hành vi để trở nên tử tế hơn, nhưng Bắc Kinh có thể đang nhận được sự giúp đỡ từ những nguồn tiền không ngờ tới.
Dòng tiền chảy vào Trung Quốc
Đầu tiên, phải kể đến các công ty tài chính phương Tây hoặc là những cá nhân đang gấp rút rót tiền cho Trung Quốc.
Vào đầu năm 2019, trước khi virus Vũ Hán tấn công, công ty tài chính Mỹ Morgan Stanley Capital International đã nâng tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu Trung Quốc. Hàng chục tỷ USD tiền tự do chuyển đổi đã chảy vào kho bạc nhà nước Trung Quốc.
Chỉ số Bloomberg Barclays Global Aggregate Index đã làm điều tương tự cho thị trường trái phiếu Trung Quốc, và nhà nước Trung Quốc đã lấy được hơn 100 tỷ USD từ nguồn tiền tự do chuyển đổi này. Đây là một nguồn tiền rất lớn và là một nguồn tiền “thật”, có giá trị thật. Có thể còn nhiều tiền nữa đang chảy tới.
Thứ hai, khu vực công của Mỹ đã chất tiền cho Trung Quốc. Ở cấp độ quốc gia, chương trình tiết kiệm cho nhân viên liên bang của Mỹ (Thrift Savings Program) đã chuyển tiền tiết kiệm của những người về hưu (trong số đó có nhiều cựu quân nhân) vào thị trường Trung Quốc.
Ở cấp tiểu bang, quỹ hưu trí công cộng California (CalPERS) lớn nhất nước Mỹ cũng làm điều tương tự. Đáng chú ý là giám đốc đầu tư của quỹ có trị giá 400 tỷ USD này là một người gốc Hoa, Bân Mạnh. Mới đây, Washington đã gia tăng giám sát quỹ này bởi có những khoản đầu tư đáng ngờ.
Khi các thượng nghị sĩ và các đại diện Mỹ chất vấn “khôn ngoan và đạo đức ở đâu” khi cấp vốn cho chính quyền ĐCSTQ, vốn là một chế độ độc tài hiếu chiến, hung hăng, đồng bóng đang tìm cách thay thế vị trí của Mỹ, thì ngành công nghiệp tài chính đã phản hồi lại các chính trị gia bằng những cử chỉ xem thường.
Dường như Phố Wall và các công ty thương mại Mỹ đã bị che mắt khi tiếp tục làm ăn với một chế độ kiểu Hitler, giúp nó phát triển thành một đội quân hùng mạnh, từng lên kế hoạch tấn công các đồng minh và tấn công cả chúng ta.
Để mở rộng phạm vi địa chính trị, sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của mình, Trung Quốc ném tiền vào các dự án cơ sở hạ tầng trải dài từ Nam Á đến Bắc Đại Tây Dương, từ Biển Đông đến Palau.
Cục nghiên cứu quốc gia châu Á ước tính hiện BRI có giá khoảng 1.000 đến 1.300 tỷ USD. Trong những thập niên qua, chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã tăng trung bình khoảng 10% mỗi năm, một tỷ lệ vượt xa các đối thủ.
Có được một khoản chi như vậy, Trung Quốc đã có thể đã tránh được đại dịch và ngăn ngừa những điều như thế trong tương lai. Nhưng họ đã làm gì với nguồn tài chính dồi dào ở trong nước, chính quyền ĐCSTQ đã chi vô khối tiền cho cái gọi là “ổn định trật tự” bằng cách đàn áp những gia đình đông con, những người dùng Internet, những người Duy Ngô Nhĩ Hồi giáo, nhũng nhà dân chủ Hồng Kông và đến cả Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng.
Chính quyền Trung Quốc bưng bít thông tin khiến virus Vũ Hán phát tán xa hơn
Sau khi virus Vũ Hán lan rộng, Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm hành vi sai trái của mình, đầu tiên che đậy, sau đó cản trở những người nhận thức được vấn đề, ngăn chặn tin tức, giảm thiểu mức độ dịch bệnh và cuối cùng đổ lỗi cho các nạn nhân của nó.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Robert O’Brien nói rằng Trung Quốc đã “che đậy” sự bùng phát virus corona ngay từ đầu, khiến một phản ứng toàn cầu hiệu quả bị trì hoãn đi 2 tháng. Vị cố vấn Mỹ cũng lưu ý, có nhiều báo cáo nguồn mở từ Trung Quốc, từ công dân Trung Quốc rằng chính quyền ĐCSTQ đã bịt miệng các bác sĩ để các thông tin về dịch bệnh không thoát ra bên ngoài.
Khi cái kim trong bọc lòi ra thì Trung Quốc cản trở các chuyên gia quốc tế đến để nghiên cứu về căn bệnh và sự lây lan của nó.
Tệ hại hơn là trong khoảng thời gian đó, những du khách vô tình mang virus đã phát tán khắp nơi, các nước đã mất thêm nhiều tuần để thu thập vật tư y tế, thiết lập cơ sở vật chất và phát triển các biện pháp đối phó với dịch bệnh.
Không chỉ gây ra và làm trầm trọng một đại dịch toàn cầu, các quan chức Trung Quốc còn khiến cộng đồng quốc tế phẫn nộ khi họ tìm cách đổ lỗi cho nước Mỹ.
Có phải là mù quáng không khi thời điểm này các nhà đầu tư vẫn đề dòng tiền của họ chảy đến một chế độ độc tài, nơi tập trung cải tiến quân đội, xây dựng trại tập trung và thu hoạch nội tạng sống các tù nhân lương tâm. Tất cả đã được chứng minh bằng tài liệu, cho thấy sự phi nhân tính của ĐCSTQ ngang với hành vi của bác sĩ Josef Mengele của Đức quốc xã hoặc “Đơn vị 731” của Nhật Bản.
Tham vọng loại tiền tệ tự do chuyển đổi
Hầu hết mọi thứ Trung Quốc cần từ nước ngoài bao gồm thực phẩm, dầu, quặng sắt và công nghệ, những thứ đòi hỏi phải có USD, hoặc sử dụng đồng euro, đồng yên Nhật và đồng bảng Anh đều được.
Nhưng tham vọng toàn cầu của Trung Quốc là tiền tệ tự do chuyển đổi, bởi vì để tài trợ cho các dự án BRI hoặc mua công nghệ, mua công ty nước ngoài, thậm chí mua các lãnh đạo của họ, Bắc Kinh phải trả bằng loại tiền mà có người chấp nhận.
Tương tự, các đại sứ quán của Trung Quốc cũng phải chi trả cho các khoản lương thưởng bằng USD hoặc trang trải các khoản chi tiêu quá mức của những ông trùm. Các giáo sư Harvard với các hợp đồng dấm dúi bí mật trong “Chương trình ngàn nhân tài” của Trung Quốc cũng phải chi bằng USD và chắc chắn không phải là đồng nhân dân tệ.
Trung Quốc cũng tốn không ít tiền của cho chiến dịch tuyên truyền nhằm đổ lỗi cho virus ở Hoa Kỳ.
Trung Quốc có thể in đồng nhân dân tệ, cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng, cung cấp trợ cấp, hạ lãi suất, hoặc ra lệnh hoãn trả nợ hoặc những gì tương tự. Nhưng ngay cả khi Bắc Kinh mang tiền đi cho, thì chính quyền này vẫn phải lo lắng về tình trạng thất nghiệp, lạm phát và quá nhiều nợ ở mọi cấp độ, từ cá nhân cho đến trung ương.
Nếu điều này vượt khỏi tầm kiểm soát, người dân Trung Quốc sẽ mất niềm tin vào nền kinh tế dẫn đến mất lòng tin vào chính quyền ĐCSTQ và tạo điều kiện dẫn đến sự bất ổn công chúng. Nhưng điều đó chưa đủ tệ. Nếu không có tiền tệ có khả năng tự do chuyển đổi, nó sẽ còn tệ hơn.
Trung Quốc không thể in tiền USD hay tiền euro. Vì vậy họ phải kiếm chúng thông qua một số hình thức, bao gồm xuất khẩu sản phẩm, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bắc Kinh giả vờ rằng họ vẫn là một quốc gia đang phát triển và do đó có đủ điều kiện nhận các khoản ưu đãi và viện trợ tài chính từ các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế.
Ngoài ra Trung Quốc còn có các phương pháp khác như mua các công ty nước ngoài hoặc thành lập doanh nghiệp ở nước ngoài. Nhưng nhiều doanh nhân Trung Quốc khi kiếm được USD ở nước ngoài lại muốn muốn giữ tiền của họ ngoài Trung Quốc và nằm ngoài bàn tay kiểm soát của ĐCSTQ.
Vì vậy, có thể thấy ngay vấn đề của ông Tập, nếu Trung Quốc không xuất khẩu, thì không thể kiếm được tiền USD.
Và nếu Trung Quốc có vẻ hỗn loạn, xung đột hoặc trong tương lai gặp kiểu tai nạn “thiên tai sinh học” như virus Vũ Hán, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ rời đi một phần hoặc hoàn toàn, thậm chí họ sẽ tránh xa việc đầu tư tương lai vào Trung Quốc.
Tất cả điều này cộng lại, Bắc Kinh không còn đủ ngoại hối để mua những gì họ cần hoặc làm những gì họ muốn.
T.H.