Thành Luân
ĐBSCL cần chương trình ngọt hóa đúng nghĩa. Phải tính đến chuyện chuyển nước từ miền Đông sang miền Tây bằng các đường dẫn nước…
ĐBSCL đang trải qua đợt hạn mặn được coi là gay gắt nhất trong lịch sử. Năm 2016, nước mặn lần đầu tiên tiến tới cảng Cái Cui (Cần Thơ) – cách cửa biển Trần Đề (Sóc Trăng) trên 100km, các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long nước mặn mới vào tới trung tâm tỉnh lỵ thì năm nay, tình hình trầm trọng hơn nhiều.
Hiện nước mặn đã ảnh hưởng đến 10/13 tỉnh ở khu vực ĐBSCL, nhiều tỉnh trong vùng đã phải công bố tình huống khẩn cấp do xâm nhập mặn trên địa bàn.
Theo dự báo của Bộ NN-PTNT, tình trạng hạn mặn năm 2020 sẽ khiến khoảng 130.000 ha cây ăn trái bị ảnh hưởng và khoảng 150.000 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt tại khu vực ĐBSCL.
Thiếu nước, cách người dân vượt qua tình cảnh khốn khó hiện tại là đợi chờ nước ngọt cứu trợ hoặc phải đi mua với giá cao.
Tuy nhiên, theo chuyên gia, những biện pháp này không thể giải quyết được tình hình khi độ mặn xâm nhập đã vượt mức kỷ lục năm 2016.
Theo GS.TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi (nay là Bộ NN-PTNT), hiện vẫn chưa phải cao điểm của hạn năm nay, việc xây thêm cống ngăn mặn ở biển là biện pháp tốn kém nhưng không hiệu quả. Trong khi đó, lượng nước ngọt từ thượng nguồn về đến các nhánh sông Cửu Long bị đứt đoạn là do các nước phía trên thượng nguồn xây đập thủy điện gây tác động tới dòng chảy.
Điều này khiến cho nguồn nước ngọt tại khu vực ĐBSCL hiện chỉ có thể trông chờ vào lượng mưa tự nhiên. Hơn bao giờ hết, điều mà khu vực này cần là một chương trình ngọt hóa đúng nghĩa để người dân có nước sinh hoạt, hoa màu cây trái có nước tưới tiêu.
Một con kênh ở ĐBSCL cạn khô do hạn hán, xâm mặn. Ảnh: Công an TP.HCM
“Mỗi năm, cả nước cần tới hơn 500 tỷ m3 nước ngọt. Nguồn nước trong nước chỉ đáp ứng được 300 tỷ m3 tính theo lượng mưa và phân bổ trên tất cả các hồ, sông, suối của cả nước. Tuy nhiên, điểm khó khăn của khu vực ĐBSCL là nơi đây không có nhiều hồ chứa để dẫn nước về.
Vì thế, chiến lược ngọt hóa dài hạn cần phải tính đến chuyện chuyển nước từ miền Đông sang miền Tây bằng các đường dẫn nước, đồng thời phải xây dựng các hồ trữ nước ngọt đạt chuẩn. Như vậy mới là ngọt hóa đúng nghĩa”, GS.TS Vũ Trọng Hồng nói.
Theo nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, chiến lược ngọt hóa đã có từ năm 1996 nhưng chưa được thực hiện do quan điểm cho rằng không cần ngọt hóa, cứ để nông dân làm, lấy nước ngầm lên tưới.
Tuy nhiên, do người dân trồng trái vụ, trái loại giống và trái đất nhiều quá: đem na, sầu riêng Thái Lan về trồng trái mùa, lúa đông xuân làm vụ muộn…, lại cứ khoét nước tưới nên cây bị hai tầng: tầng trên không có nước để tưới, tầng dưới thì hút mặn lên.
Bởi vậy, cả trăm nghìn ha cây ăn trái bị ảnh hưởng không phải hoàn toàn do thiếu nước mà bị mặn hút lên, cái mặn ấy sinh do người dân hút nước nhiều quá làm tầng nước ngọt bị mất đi. Điểm này, theo GS Hồng, có lỗi của cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, thủy văn không thông báo, tuyên truyền đầy đủ cho người dân.
Mặt khác, theo quy luật sức hút giữa mặt trăng và trái đất, vào những thời kỳ khi mặt trăng gần trái đất, thủy triều sẽ dâng cao hơn, tiến sâu vào đất liền. Chúng ta phải trồng rừng ngập mặn là để cản dòng chảy tiến vào. Tuy nhiên, thời gian qua, rừng ngập mặn bị phá đi khiến nước mặn tiến sâu vào đất liền hơn.
Một điểm khác, theo GS Hồng, đây là sai lầm lớn về chiến lược thủy lợi khi bỏ đi chỗ chứa nước. Trước đây, khi có Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên chứa nước, nó đẩy nước mặn ra nên vào mùa nước mặn, ĐBSCL không gặp vấn đề gì.
Trước tình hình hạn mặn nghiêm trọng như hiện nay, GS.TS Vũ Trọng Hồng cho rằng không thể chần chừ chương trình ngọt hóa được nữa. Các nước tính ra mất cả trăm năm mới dẫn được nước, như Trung Quốc dẫn nước từ phía nam lên phía bắc, làm suốt mấy chục năm vẫn chưa xong.
“Hỗ trợ tiền, cứu trợ nước ngọt là không đủ. ĐBSCL có hàng loạt hệ thống thủy lợi lớn nhưng tỉnh nào biết tỉnh ấy, phải nối các kênh tưới nước từ tỉnh nọ sang tỉnh kia. Trong khi chờ đợi chiến lược ngọt hóa lâu dài thì phải nối bằng các công trình tạm, có thể là các đường ốp tôn để đưa nước ngọt tới cho người dân.
Muốn vậy, phải có cơ sở dữ liệu tính toán thủy văn, thổ nhưỡng chịu được mặn bao nhiêu, nguồn nước ngọt có bao nhiêu…, từ đó tính toán đường dẫn, nghiên cứu giống cây chịu mặn…
Phải có người tiên phong. Mỗi hệ thống phải có một công trình mẫu do một doanh nghiệp làm theo công nghệ 4.0 và có sự hỗ trợ của Chính phủ. Khi thử nghiệm mới có số liệu để đưa ra lời khuyên cho cả vùng đó dùng nước thế nào”, GS.TS Vũ Trọng Hồng chỉ rõ.
T.L.