Trong sự kiện tàu thăm dò Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc cùng các tàu liên quan xâm phạm phi pháp các vùng biển của Việt Nam trong thời gian từ ngày 02/07/2019 đến ngày 24/10/2019, Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam Nguyễn Bá Sơn đã gửi hai thư ngỏ tới Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc Hoàng Tiến (Huang Jin) để phản đối các vi phạm của Trung Quốc cũng như trao đổi về các vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Bức thư đầu tiên đề ngày 24/08/2019, bức thư thứ hai đề ngày 29/10/2019, trong đó bức thư thứ hai là nhằm hồi đáp một thư ngỏ phản hồi từ Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc đề ngày 19/09/2019. Nhận thấy đây là một tài liệu hữu ích đối với các nhà nghiên cứu về sự kiện trên cũng như tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu ba bức thư trên để bạn đọc tham khảo.
82
—————
THƯ NGỎ CỦA CHỦ TỊCH HỘI LUẬT QUỐC TẾ VIỆT NAM GỬI CHỦ TỊCH HỘI LUẬT QUỐC TẾ TRUNG QUỐC (Bản tiếng Anh)
Hà Nội, Ngày 24 tháng 8 năm 2019
Kính gửi: Giáo sư Hoàng Tiến (Huang Jin),
Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (CSIL),
Toàn thể Hội viên Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) hết sức lo ngại về những diễn biến căng thẳng gần đây do phía Trung Quốc gây ra trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Nam Biển Đông. Những hoạt động của tàu Hải Dương 8 (HD8) và các tàu thuyền của Trung Quốc ở khu vực nói trên vi phạm nghiêm trọng Luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) và đi ngược lại những thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc.
Thưa Giáo sư,
VSIL và CSIL là hai tổ chức tập hợp những chuyên gia luật quốc tế hàng đầu của nước mình, đều được thành lập với mục đích nghiên cứu, phổ biến, ứng dụng và phát triển luật quốc tế. Nhận thấy CSIL xác định trong Điều lệ của mình nhiệm vụ “thúc đẩy việc trao đổi giữa các giới học thuật trong và ngoài nước, phục vụ các vấn đề đối ngoại”, tôi cho rằng hai Hội của chúng ta có thể trao đổi một cách chân thành, có lý có tình về những sự kiện đang xảy ra trên Biển Đông.
Trong Thư ngỏ này tôi sẽ không nói về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, điều đã được Chính phủ Việt Nam khẳng định nhiều lần, mà chỉ tập trung trao đổi dưới góc độ pháp lý quốc tế những hoạt động hiện nay của Tàu khảo sát địa chấn HD8. Với những quy định đầy đủ và hoàn chỉnh của UNCLOS nói riêng và của Luật pháp quốc tế nói chung, tôi tin rằng chúng ta sẽ đạt được nhận thức chung dựa trên căn cứ khoa học và pháp lý khách quan, từ đó góp phần làm giảm căng thẳng, đóng góp vào việc phát triển hòa bình, ổn định trên Biển Đông, đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân hai nước cũng như của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
1. Khu vực mà tàu khảo sát địa chấn HD8 đang hoạt động nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định trên cơ sở Điều 57 và Điều 76 của UNCLOS. Đây hoàn toàn không phải là khu vực chồng lấn hoặc có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Căn cứ quy định của UNCLOS, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp lý thiết lập phạm vi và chế độ pháp lý tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Theo đó, Việt Nam thực thi các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật, tài nguyên không sinh vật của cột nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.
Theo quy định của UNCLOS, quyền của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có tính đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay khai thác tài nguyên ở các vùng này thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động này nếu không được phép của quốc gia ven biển. Mọi hoạt động thăm dò, khai thác, khảo sát, nghiên cứu đối với tài nguyên ở đó đều phải được sự chấp thuận rõ ràng của quốc gia ven biển.
Hoạt động của tàu HD8, bất chấp sự phản đối của phía Việt Nam, đã vi phạm nghiêm trọng quy định của UNCLOS và luật pháp Việt Nam liên quan đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Hoạt động của các tàu Trung Quốc khác nhằm cản phá hoạt động chấp pháp của các tàu cảnh sát biển Việt Nam vi phạm nghiêm trọng các quy định trên và tạo ra nguy cơ mất an toàn hàng hải trong khu vực này.
2. Một số chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc thường viện dẫn “đường chín đoạn” để biện minh cho yêu sách về “các quyền lịch sử” hay “một danh nghĩa lịch sử” của Trung Quốc tại các vùng biển nằm bên trong “đường chín đoạn” này. Mặt khác,Trung Quốc cũng dựa vào UNCLOS để đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng tính từ các quần đảo ở Biển Đông mà Trung Quốc là một trong các bên yêu sách chủ quyền. Với những viện dẫn nêu trên, Trung Quốc cho rằng khu vực biển mà tàu HD8 và các tàu khác của Trung Quốc đang hoạt động là vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.
Điều này hoàn toàn phi lý. Không có bất cứ cơ sở pháp lý nào theo luật pháp quốc tế và UNCLOS cho “đường chín đoạn”, Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới cũng chưa từng công nhận bất kỳ một hàm ý về phạm vi quyền đối với vùng biển được gán cho “đường chín đoạn” này. Cũng không thể coi vùng biển mà HD8 đang hoạt động là vùng biển của quần đảo Trường Sa vì quần đảo Trường Sa không phải là một quốc gia quần đảo, do đó không đáp ứng tiêu chuẩn mà UNCLOS quy định để có thể vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh toàn bộ Trường Sa và từ đó yêu sách các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo.
Kể từ khi có Phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc thì những tranh luận trên đã được làm sáng tỏ. Phán quyết khẳng định rằng: i) không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại vùng biển bên trong “đường chín đoạn”; (ii) căn cứ vào tình trạng tự nhiên của các thực thể luôn nổi tại quần đảo Trường Sa, không thực thể nào có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng; (iii) luật pháp quốc tế không cho phép Trung Quốc vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng; (iv) các thực thể lúc chìm lúc nổi (và các thực thể ngầm) không phải là đối tượng yêu sách chủ quyền.
Mặc dù Trung Quốc không tham gia vụ kiện và bác bỏ giá trị ràng buộc của Phán quyết nói trên, nhưng theo quy định của luật pháp quốc tế và UNCLOS, phán quyết có tính chung thẩm và ràng buộc đối với hai Bên của vụ kiện. Các quốc gia đều mong muốn Phán quyết được tôn trọng và thực thi một cách thiện chí.
3. Tôi cũng được biết, có những chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc sử dụng một đoạn trong lời mở đầu của UNCLOS “Khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung” để biện minh cho các lập luận về yếu tố lịch sử và các yêu sách mập mờ nhằm tạo nên các vùng biển chồng lấn của Trung Quốc với các quốc gia ven Biển Đông.
Tuy nhiên, các vấn đề về phạm vi và quy chế của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, cũng như vấn đề quốc gia quần đảo, vùng nước quần đảo đều là những vấn đề đã được UNCLOS quy định rõ ràng, hoàn toàn không phải là “các vấn đề không được quy định”. Việt Nam và Trung Quốc đều là các quốc gia thành viên của UNCLOS, tự nguyện chấp nhận sự ràng buộc của Công ước, nên mọi cách giải thích, áp dụng trái với quy định của Công ước đều không có giá trị. Điều này cũng đã được Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc xác nhận.
Thưa Giáo sư,
Là những người dành cả cuộc đời cho việc nghiên cứu, phổ biến và thực hành luật quốc tế, chúng ta đều nhớ tới lời thề trang trọng phục vụ cho công lý của mình khi vinh dự được mang danh hiệu cao quý là luật gia. Nhiệm vụ chung của chúng ta, của VSIL và CSIL là bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự pháp lý quốc tế, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào đối với những nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế.
Với trách nhiệm phục vụ cho các vấn đề đối ngoại mà CSIL đã đề ra, cũng như với sứ mệnh thiêng liêng của người luật gia, tôi mong rằng Giáo sư và các thành viên CSIL sẽ tư vấn cho các cơ quan hữu quan của Trung Quốc những khía cạnh pháp lý quốc tế và kiến nghị Chính phủ chấm dứt ngay những hành động vi phạm luật pháp quốc tế, rút ngay tàu HD8 cũng như các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Tất cả các thành viên VSIL nguyện sẽ sử dụng tất cả những biện pháp được luật quốc tế quy định, đặc biệt là UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Tổ quốc mình.
Thay mặt cho tất cả các hội viên VSIL tôi gửi đến Giáo sư và các hội viên CSIL lời chào trân trọng và mong được cùng Giáo sư trao đổi những vấn đề khoa học luật quốc tế với mục đích thượng tôn trật tự pháp lý quốc tế, góp phần vào việc gìn giữ hòa bình ổn định trên Biển Đông, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc.
Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam
Nguyễn Bá Sơn
THƯ TRẢ LỜI CỦA CHỦ TỊCH HỘI LUẬT QUỐC TẾ TRUNG QUỐC (Bản tiếng Anh)
Ngày 19 tháng 09 năm 2019
Kính gửi Chủ tịch Nguyễn Bá Sơn,
Tôi xin ghi nhận Thư ngỏ của ngài gửi tới tôi được công bố vào ngày 24 tháng 08 năm 2019. Tôi sẵn sàng tham gia trao đổi học thuật cùng ngài về luật quốc tế. Với tư cách là một học giả trong lĩnh vực luật quốc tế, tôi muốn thảo luận các vấn đề sau liên quan đến Thư ngỏ của Ngài.
1. Các mô tả nhận định về Nam Sa Quần Đảo (Quần đảo Nam Sa) được đề cập trong Thư ngỏ là không đúng và một chiều, vậy nên không thể rút ra kết luận khách quan về việc làm thế nào để giải quyết vấn đề.
Trung Quốc có chủ quyền với Nam Sa Quần Đảo. Dựa vào Nam Sa Quần Đảo, Trung Quốc có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Hơn nữa, Trung Quốc có quyền lịch sử tại Nam Hải. Các quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc tại Nam Hải có cơ sở vững chắc theo luật quốc tế, và đã được khẳng định thông qua các văn bản pháp lý của Trung Quốc, bao gồm Tuyên ngôn của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958, Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992, Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa năm 1998, và Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Chủ quyền lãnh thổ và Quyền và Lợi ích Hàng hải tại Nam Hải đưa ra vào ngày 12 tháng 07 năm 2016.
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) không phải là toàn bộ luật biển quốc tế. Chính UNCLOS cũng đã có quy định rõ ràng rằng, các vấn đề không được điều chỉnh trong Công ước sẽ được điều chỉnh bởi các quy định và nguyên tắc luật quốc tế. Vấn đề về quyền lịch sử và quy chế của các quần đảo của quốc gia lục địa là những vấn đề không được điều chỉnh trong UNCLOS, và nên tiếp tục được điều chỉnh theo luật quốc tế nói chung. Quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải đã được hình thành từ thực tiễn của người dân và chính phủ Trung Hoa qua lịch sử lâu dài, và có cơ sở vững chắc về mặt lịch sử và luật pháp. Nam Sa Quần đảo của Trung Quốc đáp ứng tiêu chuẩn là quần đảo của quốc gia lục địa theo luật quốc tế, và đã được nhìn nhận như vậy trong lịch sử. Trung Quốc có chủ quyền lãnh thổ, và quyền lợi hàng hải dựa trên Nam Sa Quần Đảo như một thực thể thống nhất.
Tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc luôn hoạt động tại vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc, tuân thủ tuyệt đối luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS. Ngược lại, chính Việt Nam đã làm ngơ phản đối của Trung Quốc và đơn phương tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc tại Nam Hải, vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc tại Nam Hải, bỏ qua các thỏa thuận song phương liên quan giữa Trung Quốc và Việt Nam, và vi phạm Điều 5 của Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Nam Hải năm 2002.
2. Trong Thư ngỏ, ngài tuyên bố rằng sẽ không đề cập đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Bằng cách đó, ngài thực tế đã lảng tránh cốt lõi vấn đề Nam Hải giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như các điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề. Theo đó, cần nhắc lại một nguyên tắc quan trọng của luật quốc tế, cụ thể là nguyên tắc “đất thống trị biển”. Chủ quyền lãnh thổ là cơ sở cho các quyền trên biển của một quốc gia ven biển. Nếu không xác định chủ quyền lãnh thổ từ đầu, chúng ta sẽ không thể nào xác định được các quyền trên biển của một quốc gia ven biển liên quan. Từ những năm 1970, Việt Nam đã chiếm giữ một số đảo và bãi đá tại Nam Sa Quần đảo liên tục và trái phép, tạo ra tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Ngoài ra, với sự phát triển của luật biển quốc tế, vấn đề phân định biển cũng đã xuất hiện giữa Trung Quốc và Việt Nam. Bản chất vấn đề Nam Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam là một vấn đề về lãnh thổ. Vấn đề này không nên bị lảng tránh; thay vào đó, cần được xử lý ngay từ đầu.
Ngài cũng đã trích dẫn Phán quyết của cái-gọi-là Tòa trọng tài Nam Hải. Tới đây, tôi cảm thấy cần phải nhắc lại một nguyên tắc quan trọng khác của luật quốc tế, cụ thể là nguyên tắc đồng ý, thể hiện trực tiếp nguyên tắc chủ quyền trong giải quyết tranh chấp. Để xác lập thẩm quyền của mình trong một tranh chấp giữa các quốc gia, một cơ quan tài phán hay trọng tài quốc tế trước đó phải nhận được sự đồng ý từ các bên trong tranh chấp. Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong UNCLOS, bao gồm thủ tục trọng tài tại Phụ Lục VII, cũng tuân theo nguyên tắc đồng ý như vậy. Nếu một cơ quan tài phán hay trọng tài quốc tế bỏ qua phạm vi đồng ý của các Quốc gia, hay ngang nhiên thực hiện thẩm quyền, bất chấp sự phản đối của một bên, đối với vấn đề mà Quốc gia đó phản đối, thì cơ quan đó sẽ vi phạm nguyên tắc chủ quyền và các quyết định của cơ quan đó là vô hiệu. Tranh chấp sẽ ngày một trở nên căng thẳng thay vì được giải quyết. Tòa Trọng tài Nam Hải chính là một ví dụ tồi tệ điển hình như thế. Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần thể hiện rõ lập trường không chấp nhận và không tham gia Tòa Trọng tài Nam Hải cũng như lập trường không chấp nhận và không công nhận các Phán quyết trái luật của Toà này. Từ góc độ pháp lý, Tòa Trọng tài không có thẩm quyền đưa ra các Phán quyết. Hơn nữa, trong Phán quyết, các chứng cứ của Tòa Trọng tài mang tính một chiều, cùng với các phân tích pháp lý bất nhất, và lập luận tuỳ tiện. Trong rất nhiều kết luận, Tòa Trọng Tài thậm chí còn không thể đưa ra lập luận nào. Nhằm thông tin chính xác và cung cấp hiểu biết đúng đắn về vấn đề này, Hội Luật Quốc tế Trung Quốc đã xuất bản công trình Phán quyết Tòa Trọng tài Nam Hải: Một nghiên cứu phê phán (The South China Sea Arbitration Awards: A Critical Study) vào tháng 5 năm 2018, trong đó liệt kê các sai sót nghiêm trọng trong Phán quyết và chứng minh tính chất trái luật và vô hiệu của nó. Nghiên cứu Phê phán (bản tiếng Trung và tiếng Anh) nói trên hiện đang đăng trên website của Hội Luật Quốc tế Trung Quốc và Tạp chí Trung Hoa về Luật Quốc tế (Chinese Journal of International Law) (2018, ấn bản 2), nếu ngài muốn tham khảo.
3. Các vấn đề xoay quanh tranh chấp biển giữa Việt Nam và Trung Quốc rất phức tạp. Phương thức giải quyết đúng đắn không chỉ đòi hỏi sự tuân thủ luật pháp quốc tế mà còn, quan trọng hơn hết, sự thông thái và kiên trì chính trị. Các nỗ lực chung của Trung Quốc và Việt Nam đã tạo ra các tiền lệ tốt và là vốn kinh nghiệm phong phú trong việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán và tham vấn song phương. Vào tháng 12 năm 2000, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Hiệp định Phân định Lãnh hải, Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa tại Vịnh Bắc Bộ. Tới năm 2008, Trung Quốc và Việt Nam thông qua đàm phán song phương đã giải quyết hết các tranh chấp về biên giới trên đất liền. Trên thực tế, giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và phân định biển thông qua đàm phán song phương không chỉ là lập trường nhất quán của riêng Chính phủ Trung Quốc, mà còn là nhận thức của hầu hết các Quốc gia, bao gồm Việt Nam. Thỏa thuận về Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ ràng rằng, đối với các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai bên sẽ chỉ giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Quan điểm này cũng được phản ánh đầy đủ trong Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên trên Nam Hải.
Biển cả rộng lớn và bao trùm. Nó nên là sợi dây liên kết giữa các bên, hơn là trở thành một vật cản chia cách nhau. Chúng tôi vui mừng được chứng kiến lần rà soát thứ nhất bản dự thảo Bộ Quy tắc Ứng xử Nam Hải đã được hoàn thành; điều này cho thấy việc đạt được hòa bình và ổn định là mục tiêu chung của mọi Quốc gia ven Nam Hải. Những cuộc đối thoại và thảo luận giữa Hội luật Quốc tế Việt Nam và Trung Quốc, hai tổ chức học thuật nghiên cứu luật quốc tế, không đại diện cho chính phủ mỗi bên, nhưng chúng ta có thể đẩy mạnh trao đổi về các vấn đề trên Nam Hải, cụ thể, về dàn xếp tạm thời trước phân định biển, hợp tác phát triển chung tại Nam Hải cũng như các hình thức hợp tác trên biển khác, nhằm mang lại hòa bình và ổn định trên Nam Hải và quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam. Đến đây, tôi xin trân trọng được mời ngài và các thành viên khác của Hội Luật Quốc tế Việt Nam đến thăm Trung Quốc ở một thời điểm phù hợp nhất đối với cả đôi bên.
(đã ký)
Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc
THƯ CỦA CHỦ TỊCH HỘI LUẬT QUỐC TẾ VIÊT NAM TRẢ LỜI THƯ NGÀY 19/09/2019 CỦA CHỦ TỊCH HỘI LUẬT QUỐC TẾ TRUNG QUỐC
Ngày 29/10/ 2019
Kính gửi: GS. Hoàng Tiến,
Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc
Trước tiên tôi cám ơn Giáo sư và các thành viên Hội Luật quốc tế Trung Quốc (CSIL) đã có Thư phản hồi Thư ngỏ của Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) gửi CSIL liên quan đến những vi phạm của nhóm tàu Hải Dương 8 tại khu vực biển hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Trên tinh thần nghiêm túc, khách quan khoa học, tôn trọng sự khác biệt quan điểm giữa chúng ta về các vấn đề pháp lý và cả các khía cạnh chính trị liên quan đến tranh chấp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông, tôi xin phản biện lại những ý kiến mà Giáo sư đã nêu ra trong Thư ngày 19/9/2019 như sau:
1. Trong Thư trả lời, Giáo sư phê phán tôi “lảng tránh” đề cập đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa và cho rằng vấn đề đó “phải được giải quyết trước tiên”. Đây là một sự hiểu lầm hoàn toàn.
Thứ nhất, như tôi đã nhấn mạnh trong Thư ngỏ ngày 24/8/2019, vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa không phải là chủ đề chính của Thư ngỏ. Lý do rất rõ ràng và không thể hiểu khác được, điều mà tôi cũng sẽ làm rõ dưới đây, đó là vấn đề chủ quyền đối với quần đảo này không hề có sự liên quan gì, cả về pháp lý hay địa lý đối với khu vực biển nơi Trung Quốc đang có những hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Thứ hai, như tôi đã đề cập trong Thư ngỏ ngày 24/8/2019, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa “đã được Chính phủ Việt Nam khẳng định nhiều lần”. Khẳng định của Chính phủ Việt Nam là dựa trên những chứng cứ lịch sử – pháp lý vững chắc như đã được trình bày trong các Sách trắng về Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xuất bản trong các năm 1975, 1979, 1981, 1988. Chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được nhiều luật gia, sử gia quốc tế phân tích và công nhận, ví dụ như cuốn sách “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands” của Giáo sư Luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1986 (bản dịch tiếng Anh năm 2000), hay cuốn sách “The South China Sea – The Struggle for Power in Asia” của nhà nghiên cứu người Anh Bill Hayton xuất bản năm 2014.
Thứ ba, tôi hoàn toàn không thể đồng ý với việc Giáo sư cho rằng từ những năm 1970’ Việt Nam “từng bước chiếm đóng một cách phi pháp một số đảo và bãi ngầm” thuộc quần đảo Trường Sa và đó là “nguyên nhân gây ra tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam”.
Từ thế kỷ 17, các Chúa Nguyễn đã thực thi chủ quyền của Việt Nam thông qua việc cử các đội Hoàng Sa – Bắc Hải ra khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiếp theo, các Hoàng đế Nhà Nguyễn đã cử các đội hải quân ra vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền trên hai quần đảo này… Trong giai đoạn chủ nghĩa thực dân thống trị, nước Pháp thay mặt cho Việt Nam quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và quản lý hai quần đảo này từ nước Pháp theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Việc tiếp quản quần đảo Trường Sa vào Mùa Xuân 1975 và những hoạt động bình thường của Việt Nam trong khu vực quần đảo Trường Sa sau khi đất nước đã hòa bình, thống nhất là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thì sao có thể nói là “phi pháp” được.
Ngược lại, vào các năm 1974 và 1988, với những hành động bị luật quốc tế nghiêm cấm, phía Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng một số đảo và thực thể (đảo đá, bãi cạn) trong khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc chiếm đóng, rồi từ đó đến nay, từng bước xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hoá một cách bất hợp pháp một số đảo đá và bãi cạn thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mới chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng, đe doạ hoà bình và ổn định tại Biển Đông và trong khu vực. Chẳng lẽ những hành động bị các quốc gia trên thế giới và Việt Nam lên án đó lại có thể gọi là hợp pháp và tạo thành cơ sở cho phía Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo và rồi sử dụng nó để đòi hỏi một vùng biển rộng lớn chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).
2. Tôi đồng ý với việc nhấn mạnh “nguyên tắc chấp thuận” của quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế và nguyên tắc “đất thống trị biển” để xác định các quyền trên biển của quốc gia mà Giáo sư nêu trong phần 2 Thư trả lời. Nhưng sự đồng ý đó không thể làm cho tôi chia sẻ những luận giải của Giáo sư về hai nguyên tắc này.
Thứ nhất, với việc từ chối tham gia vụ kiện trọng tài Biển Đông với Philippines và tuyên bố không công nhận giá trị ràng buộc của Phán quyết của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS, chính phía Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc chấp thuận mà quốc gia với tư cách là thành viên UNCLOS cần tuân thủ. Bằng việc phê chuẩn UNCLOS, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thể hiện sự chấp thuận của quốc gia mình đối với các nghĩa vụ pháp lý quốc tế được quy định trong Công ước, bao gồm việc chấp nhận thủ tục tài phán bắt buộc, công nhận và thực hiện Phán quyết mang tính chất chung thẩm và ràng buộc ngày 12/7/2016 mà Toà Trọng tài đã tuyên.
Thứ hai, liên quan đến việc áp dụng “nguyên tắc đất thống trị biển”, Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông, trên cơ sở phân tích một cách khách quan và khoa học, đã đưa ra kết luận rằng không có bất kỳ thực thể luôn nổi nào tại khu vực quần đảo Trường Sa đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 121 UNCLOS để có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình. Điều này có nghĩa rằng các thực thể luôn nổi thuộc quần đảo này chỉ có thể có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Các thực thể giữa biển, nằm dưới mặt nước biển khi thủy triều lên không phải là đảo, không có vùng biển xung quanh.
Hơn nữa, Toà Trọng tài cũng đưa ra kết luận rằng không một quốc gia nào có quyền yêu sách vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng, vì nhóm đảo này không đáp ứng các điều kiện để có đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 của UNCLOS hoặc đường cơ sở thẳng theo quy định tại Điều 7. Khu vực mà Trung Quốc gọi là “Bãi Vạn An” hoàn toàn chìm dưới mặt nước biển, thuộc thềm lục địa Việt Nam và không liên quan gì đến quần đảo Trường Sa, nơi các thực thể không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế như Tòa Trọng tài đã phán xử.
Như vậy, việc tồn tại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa không thể dẫn đến việc phát sinh bất kỳ sự chồng lấn nào giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được tính từ bờ biển lục địa của Việt Nam, với lãnh hải của bất kỳ thực thể luôn nổi nào thuộc quần đảo Trường Sa. Nói một cách khác, “nguyên tắc đất thống trị biển” mà Giáo sư nêu ra không có “đất” để áp dụng cũng như không có vùng biển chồng lấn để giải quyết.
Để biến Biển Đông thành “sự kết nối tất cả các bên” như Giáo sư đề xuất, thì mỗi bên khi tiến hành những hoạt động trên biển phải tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên đối tác khác, trân trọng lịch sử quan hệ hữu nghị mà các bên đã dày công vun đắp và tuyệt đối tuân thủ luật quốc tế.
3. Liên quan đến hai văn kiện chính trị song phương và đa phương là “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” và “Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc” (DOC), tôi cho rằng “đàm phán và hiệp thương hữu nghị” là biện pháp ưu tiên trong việc giải quyết hoà bình mọi tranh chấp, bất đồng giữa các quốc gia. Là một cựu quan chức của Bộ Ngoại giao Việt Nam và đã nhiều năm tham gia đàm phán với Trung Quốc về vấn đề biên giới lãnh thổ, bao gồm cả tranh chấp Biển Đông, tôi thành tâm mong muốn hai nước chúng ta có thể thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết các tranh chấp bất đồng còn tồn tại. Tuy nhiên, với tư cách là một chuyên gia luật quốc tế, tôi có thể khẳng định rằng không có bất kỳ nội dung nào trong hai văn kiện này, cũng như trong bất kỳ thoả thuận nào giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể được giải thích như là sự hạn chế quyền của mỗi nước chúng ta được tự do lựa chọn bất kỳ biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp nào khác đã được luật pháp quốc tế công nhận và cho phép một cách rõ ràng, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc (Điều 33) và UNCLOS.
Cuối cùng, tôi có một niềm tin vững chắc là các cuộc trao đổi khoa học nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau sẽ góp phần làm cho nhân dân hai nước và cộng đồng quốc tế có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về nguyên nhân cũng như biện pháp giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông. Là hai tổ chức phi chính phủ, CSIL và VSIL không thể thay mặt cho chính phủ, nhưng với vai trò là hai tổ chức tập hợp các chuyên gia và giới nghiên cứu về luật quốc tế, tôi tin rằng thông qua những cuộc trao đổi quan điểm một cách khoa học và khách quan, CSIL và VSIL có thể có những đóng góp tích cực vào việc vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, xây dựng niềm tin, củng cố hòa bình, ổn định trên Biển Đông và trong khu vực, đáp ứng lòng mong đợi của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Tôi chân thành cám ơn lời mời thăm Trung Quốc vào thời điểm thích hợp cho cả hai bên của Giáo sư. Tôi cũng hân hạnh được mời Giáo sư và các thành viên CSIL sang thăm Việt Nam vào thời gian Giáo sư có thể thu xếp được. Tôi nhất trí với Giáo sư về việc hai Hội chúng ta có thể cùng nhau tổ chức các cuộc tọa đàm hoặc hội thảo về những vấn đề pháp lý quốc tế trên Biển Đông mà hai bên cùng quan tâm và đề nghị hai Hội nên sớm thực hiện việc này.
Xin gửi tới Giáo sư và tất cả các thành viên CSIL lời chào trân trọng.
Nguyễn Bá Sơn
Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam