Trao đổi tiếp về chuyện Biển Đông

Vũ Ngọc Hoàng

Sau bài viết "Trao đổi nhanh về chuyện Biển Đông” đầu tháng 9 vừa qua, tôi đã nhận được nhiều ý kiến bình luận, phản biện. Trước hết, tôi rất cảm ơn quý anh chị và bạn đọc. Nhân đây, xin được trao đổi tiếp về chuyện Biển Đông xung quanh các ý kiến phản biện đó.

1. Có ý kiến cho rằng, hiện tại xét về tương quan lực lượng thì Trung Quốc mạnh hơn ta nhiều, ta không đủ sức chống lại họ, mà cũng không thể bài Hoa, kiện là có cớ để họ lấn tới, tấn công ta.

Tôi xin thưa, ta đâu có định chống Trung Quốc. Đây chỉ là quyền tự vệ chính đáng bằng giải pháp hòa bình của một dân tộc văn hiến, có chủ quyền và biết tự trọng, chứ đi chống Trung Quốc để làm gì. Ta chỉ muốn sống hòa hiếu, hữu hảo thật lòng với láng giềng, trong đó có Trung Quốc, và bạn bè quốc tế năm châu. Bao đời nay Việt Nam vốn là một dân tộc yêu hòa bình và đường lối ngày nay là muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới.

Ta cũng không hề có ý định bài Hoa, mà bài làm sao được khi hai dân tộc sống gần cạnh nhau đã do thiên định, nhân dân hai bên biên giới sáng sớm nào cũng nghe tiếng gà gáy của nhau, và Việt Nam cũng rất cần có thị trường lớn bên cạnh để cùng nhau hợp tác phát triển trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.

Còn việc ta phải kiện Trung Quốc như tôi đã nói là vì họ ép ta phải làm thế, ta càng nhân nhượng họ càng lấn tới, họ đã xúc phạm ta, nên không có cách khác, không thể để chân lý bị chà đạp, chủ quyền quốc gia và các quyền lợi chính đáng của dân tộc bị cường bạo cưỡng chiếm. Không kiện là hữu khuynh, coi chừng thỏa hiệp vô nguyên tắc. Kiện để mở đường, để làm cơ sở cho các đấu tranh tiếp theo. Nếu chỉ đấu tranh song phương thì lâu nay đã làm, và không có kết quả, dễ bề cho họ ép ta. Cần phải đa phương, phải quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, dựa vào luật pháp và cộng đồng quốc tế để đấu tranh.

Có ý kiến bảo nên bắt đầu bằng việc đưa vấn đề Trung Quốc giành biển của Việt Nam ra Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đồng thời tiếp tục kiện ra quốc tế. Kiện về chuyện Bãi Tư Chính và Hoàng Sa, Trường Sa nữa, từng vụ cho từng vấn đề. Tôi nghĩ thế là rất cần thiết, đáng lẽ phải làm sớm rồi, còn kiện cụ thể những gì và như thế nào thì chắc chắn các nhà nghiên cứu luật pháp sẽ thông thái hơn tôi.

Việc khởi kiện cũng nên khẩn trương làm ngay, càng sớm càng tốt, vì họ đang ngày càng lấn tới, để càng lâu càng khó, và hành động thực tế của họ đã vượt qua ranh giới đỏ rồi. Gần đây, họ còn tuyên bố một cách ngạo mạn rằng khu vực bãi Tư Chính là của họ, rồi họ kêu gọi Việt Nam đối thoại hòa bình, mặt khác cùng lúc họ tiếp tục cho nhiều tàu lớn lấn sâu hơn vào phía bờ biển của Việt Nam, chỉ còn cách đất liền một đoạn ngắn. Cần phải rất cảnh giác với các chiêu bài của Trung Quốc. Đối thoại là đối thoại vấn đề gì phải cho rõ. Bãi Tư Chính đang yên ổn là của Việt Nam, luật pháp quốc tế cũng đã rành rành như vậy, nhưng họ đang chuyển sang vùng tranh chấp, coi chừng ta lại mắc mưu. Họ đi những “nước cờ” rất bài bản với âm mưu thâm sâu, ta không thể đối phó từng nước một trong thế bị động và lúng túng. Và cần phải chống “nhóm lợi ích” thân Tàu, coi chừng chúng nó bán rẻ Tổ quốc ta cho Phương Bắc.

Về chuyện tương quan lực lượng thì từ ngày xưa đã thế, Trung Quốc lúc nào cũng to lớn hơn Việt Nam. Mười mấy lần họ xâm lăng nước ta trước đây xét về tương quan lực lượng vật chất họ đều mạnh hơn ta. Trong các cuộc kháng chiến vệ quốc trước đây, Việt Nam thậm chí đã phải bắt đầu bằng gậy tầm vông. Tương quan lực lượng ngày ấy còn chênh lệch hơn nhiều so với bây giờ, thế mà cha ông ta đã dám hành động dũng cảm, rất đáng tự hào và kính trọng.

Từ xưa đến nay Việt Nam chưa bao giờ gây chuyện với Trung Quốc, mà chỉ có việc Trung Quốc luôn ức hiếp và nhiều lần xâm lược Việt Nam. Họ luôn có âm mưu thâm hiểm muốn biến nước ta thành thuộc quốc chư hầu của họ. Chẳng lẽ vì tương quan lực lượng của ta yếu hơn mà đất nước và dân tộc này phải cúi đầu nhịn nhục, không có quyền ngẩng lên để đấu tranh tự vệ. Và ngày nay vấn đề tương quan lực lượng cần được hiểu theo tư duy mở, trong đó có yếu tố con người, truyền thống văn hóa, chân lý, bạn bè và luật pháp quốc tế nữa.

Còn ý kiến nói rằng nếu ta chống lại họ thì tạo cớ cho Trung Quốc tấn công lấy biển của ta?

Vì sao lại xem việc thực hiện quyền tự vệ chính đáng của Việt Nam là tạo cớ cho kẻ xâm lăng thực hiện âm mưu. Quả là một kiểu tư duy không thể hiểu nổi. Đó chỉ là kiểu ngụy biện cho một sự nhu nhược về tinh thần và bản lĩnh. Thực ra họ chẳng cần cái cớ ấy đâu. Chính họ đã tạo ra rồi cái cớ hết sức vô lý khi nói vùng biển của Việt Nam là của họ, còn Việt Nam từ chủ nhân họ vu cáo là kẻ xâm phạm đấy thôi.

2. Có ý kiến giải thích rằng Trung Quốc đã làm được gì ở đó đâu, còn VN ta đã đặt được giàn khoan ở Bãi Tư Chính rồi, đất nước vẫn hòa bình yên ổn, thế mới là sách hay và khôn khéo, có chuyện gì đâu mà phải la ầm lên. 

Nghe nói vậy càng thấy buồn lo. Ta đặt giàn khoan trên phần lãnh hải thuộc chủ quyền của đất nước ta, sao lại đi so sánh với việc Trung Quốc ngang nhiên tự do đi vào “vườn nhà” của ta. Họ còn nói đó là vùng chủ quyền của họ và yêu cầu ta phải rút đi. Thật là một sự xúc phạm! Thực tế họ đã xâm lăng ta mấy tháng nay rồi và đang biến một vùng biển rộng lớn của ta thành của họ, thế mà lại nói họ chưa làm được gì. Sao lại phải biện minh cho hành vi ngang ngược của kẻ xâm lăng? Tại sao lại phải ru ngủ nhân dân? Biện minh theo kiểu đó thì vô tình hoặc cố ý làm lợi cho kẻ xâm lăng.

Lần này coi ra họ rất quyết liệt hành động. Việc chiếm được biển của Việt Nam có ý nghĩa lớn lao đối với họ, còn không chiếm được thì chiến lược về giấc mộng Trung Hoa có thể bị phá sản. Và họ nhận thấy lúc này về phía Việt Nam có những yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện âm mưu của họ. Trung Quốc đang sử dụng kế sách “không cần đánh mà vẫn thắng”, tức là không cần nổ súng vẫn lấy được biển, đó là thượng sách. Họ vừa muốn chiếm biển của ta, vừa không muốn “mất” Việt Nam, tức là vẫn giữ được một VN nằm trong tầm kiểm soát của họ. Vì vậy, tốt nhất là làm sao lấy được biển mà VN ít phản đối hoặc là chỉ phản đối chiếu lệ. Nhưng đồng thời họ cũng hăm dọa bằng tàu lớn súng nhiều và sẵn sàng động binh. Còn diễn biến thực tế trên chiến trường mấy tháng nay thì rõ ràng họ đang tiến và ta đang thua từng bước. Họ tiến vào ngày càng sâu hơn, gần đất liền hơn. Từ chỗ họ nói Tư Chính là vùng tranh chấp rồi sau đó họ nhanh chóng chuyển sang nói là vùng biển của họ và vu cáo cho Việt Nam cố tình lấn chiếm, yêu cầu Việt Nam phải rút đi, rồi bảo Việt Nam phải đối thoại để cùng khai thác…

Tình hình thật nghiêm trọng nhưng nhiều người vẫn tỏ ra như chưa có gì nghiêm trọng. Mấy tháng nay họ đã vào ra vùng biển của ta nhiều lần, như đi chợ, như ao nhà của họ. Có đợt cả tháng sau ta mới lên tiếng. Đẩy đuổi thì xem ra không đủ sức làm lâu dài. Lên án cũng không ra lên án. Đẩy mạnh tuyên truyền cho nhân dân VN và thế giới biết bản chất của vấn đề cũng không làm. La làng lên cho mọi người biết là kẻ cướp đã đột nhập nhà tôi cũng không. Kiện cũng không chịu kiện. Tăng thêm đối tác chiến lược mới cũng không. Hợp tác quân sự mới cũng không thấy…

Nói chung dân chúng không hiểu thái độ và đối sách của lãnh đạo nước ta ra sao. Mà xem ra đây cũng không phải là sự bình tĩnh của một cao thủ có kế sâu nên nhiều người đã bảo “chẳng hiểu vì sao mà phải thế”.

3. Có người phê bình rằng các ý kiến từ nhân dân không hiểu hết tình hình nên nhận định, đề xuất không phù hợp. Thậm chí có ý kiến còn phê phán chì chiết những tiếng nói từ những người yêu nước.

Trong nhân dân, có người không đủ thông tin như lãnh đạo cũng là chuyện bình thường, nhưng có thể họ lại hiểu lòng dân hơn lãnh đạo. Ý kiến nào không hiểu tình hình mà nói không đúng thì nên chỉ ra, nói lại xem thử thế nào là đúng. Nhưng riêng việc mấy tháng nay Trung Quốc liên tục (gần như thường xuyên) xâm phạm biển của Việt Nam một cách trắng trợn, họ tuyên bố đó là biển của họ, Việt Nam thì không la, không kiện, không nói rõ cho nhân dân biết, đặc biệt lãnh đạo đất nước không lên tiếng mạnh mẽ rõ ràng quan điểm…, đó có phải là sự thật hay dân nói sai?

Thực tế mấy tháng nay quốc dân đồng bào không được các cơ quan hữu trách hoặc báo chí chính thống thông tin kịp thời và đầy đủ cho biết tình hình Biển Đông của Việt Nam đang bị xâm phạm. Cứ làm như mọi việc vẫn bình thường, không có chuyện gì xảy ra, thậm chí kẻ xâm lăng vẫn còn được coi là “đối tác chiến lược toàn diện” quan trọng nhất của VN.

Tại sao không thông báo kịp thời mọi việc cho nhân dân biết rõ tình hình?

Phải chăng sự quan tâm của nhân dân đối với chủ quyền của đất nước là không cần thiết, đó không phải là việc của nhân dân?

Tất nhiên gần đây báo chí chính thống ít nhiều cũng đã có nói đến, dù chỉ ở mức độ hết sức khiêm tốn. Hãy nhớ rằng, từ lâu Trung Quốc đã tác động nhiều thông tin ra thế giới và trong nước để chuẩn bị dư luận, và hiện nay họ vẫn đang ngày đêm tác động thông tin để nhiễu loạn phía Việt Nam.

Còn phía ta, cần xem lại ta đang ứng xử ra sao đối với tình hình đất nước rất nghiêm trọng vì chủ quyền của quốc gia đang bị xâm phạm? Trong số những người dân yêu nước có thể người này người khác có lúc nóng nảy, nói sai điểm này điểm khác, đụng chạm… thì nói lại, uốn nắn. Nhưng phải biết quý trọng tấm lòng của họ, nuôi dưỡng, hun đúc và tích góp chí khí của dân tộc để mà giữ nước. Không nên, không được làm điều gì gây tổn thương cho lòng yêu nước của nhân dân.

4. Một số ý kiến phản biện rằng, nói đến liên minh quân sự là nguy hiểm, dễ gây ra chiến tranh. Mà họ cũng đã nổ súng đâu, đã có chiến tranh đâu mà nói đến liên minh chiến đấu. 

Lần trước tôi cũng đã nói không liên minh quân sự với ai để chống nước khác là quan điểm đúng đắn. Việc đó cũng là thể hiện tinh thần của một dân tộc yêu hòa bình, ghét hiếu chiến. Nhưng trong tình thế đất nước bị xâm lăng thì cần liên minh để bảo vệ chủ quyền. Chẳng lẽ thà chịu mất nước chứ nhất định không được liên minh chiến đấu để bảo vệ?

Như ta đã biết và thường ca ngợi chiến thắng của phe Đồng Minh trong Đại chiến thế giới II – đó chính là một liên minh chiến đấu vì hòa bình. Và khi ấy Việt Nam cũng đã đứng về phe Đồng Minh. Việt Nam và Lào đã nhiều lần cùng liên minh chiến đấu mà đến nay ta vẫn luôn ca ngợi liên minh ấy. Sau năm 1975 Việt Nam và Liên-xô cũng có lúc như vậy. Những lúc ấy, đó là sự cần thiết của tinh thần tự vệ chính đáng.

Còn nói họ đã làm gì đâu mà ta lại tính đến việc liên minh chiến đấu? Sao lại biện minh là họ chưa làm gì?

Họ đã chính thức xâm chiếm lãnh hải tức là một phần Tổ quốc của chúng ta bị xâm lăng rồi, chứ sao lại nói “họ đã làm gì đâu”. Chẳng lẽ đợi đến khi “chậm mất rồi”, “thua mất rồi” thì mới bàn đến việc liên minh chiến đấu để tự vệ? Chủ động chuẩn bị tốt các biện pháp bảo vệ đất nước cũng là một cách phòng ngừa để chiến tranh không xảy ra. Còn nếu cuối cùng nó vẫn xảy ra thì đó là việc do đối phương muốn vậy, ngoài ý muốn của ta. Trong trường hợp ấy chúng ta sẽ chủ động hơn.

Trước đây có lúc Việt Nam đã ủng hộ và tham gia phong trào không liên kết. Gần đây cũng có ý kiến bảo chỉ cần nói Việt Nam không liên kết với bất cứ nước nào, bên nào là đủ rồi. Tôi cũng nhất trí với ý kiến ấy, nhưng đó là nói về đường lối đối ngoại đối với các vấn đề khác không liên quan đến chủ quyền của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (ví dụ trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung hoặc các cuộc xung đột trên thế giới và khu vực).

Riêng đối với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam thì tôi giữ ý kiến sẵn sàng liên minh với bất kỳ nước nào ủng hộ chủ quyền của ta để tự vệ chính đáng. Tất nhiên là không ỷ lại dựa dẫm ai và hành động liên minh đó trên thực tế chỉ thực hiện khi có xung đột. Nhưng về nhận thức, quan điểm thì phải xác định trước, chứ đợi đến lúc xảy ra xung đột rồi mới triệu tập họp lại để bàn thì quá trễ. Trong thời đại công nghệ ngày nay, những nước như Việt Nam ta chưa đủ điều kiện về công nghệ thì càng phải có liên minh mới sử dụng được hệ điều hành từ vệ tinh của nước này hay nước khác.

5. Có người hỏi lại “nếu liên minh chiến đấu thì liên minh với ai và như thế nào?”

Đó là công việc của các nhà quân sự, họ sẽ thông thái hơn chúng ta, và tôi tin rằng họ sẽ không bó tay để đưa lưng cho người ta bắn và ngồi nhìn chủ quyền quốc gia thiêng liêng bị người khác cưỡng chiếm và xúc phạm.

Ngày nay, các vấn đề chính trị, quân sự trong đối ngoại nhìn chung thường có gắn với lợi ích kinh tế. Phần Biển Đông thuộc nước ta đang chứa rất nhiều khoáng sản có giá trị lớn. Cần đẩy mạnh khai thác để có nguồn tài chính cho hiện đại hóa đất nước, không cần phải “để dành” mà kẻ tham dòm ngó và âm mưu cướp bóc. Tất nhiên chuyện Biển Đông không chỉ là tài nguyên mà còn vị thế chiến lược về địa kinh tế và địa chính trị mới quan trọng hơn nhiều. Ta có thể mở cửa rộng hơn với chính sách thuế phù hợp và thủ tục pháp lý thuận tiện để khuyến khích các đối tác từ các nước tôn trọng chủ quyền của VN vào hợp tác đầu tư khai thác theo luật pháp của Việt Nam và đôi bên cùng có lợi (ví dụ như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ấn Độ, Nga, Úc…). Đồng thời ta đề xuất phương án cùng nhau liên minh bảo vệ vùng biển này để bảo đảm cho công việc đầu tư khai thác được an toàn và an ninh. Còn Trung Quốc, khi nào họ thay đổi quan điểm, tôn trọng chủ quyền biển đảo của Việt Nam thì ta hoan nghênh và cũng mời họ vào tham gia hợp tác khai thác như các đối tác nói trên.

6. Khi tôi nhấn mạnh mục tiêu “dân tộc và dân chủ” thì có ý kiến nói “còn mục tiêu Xã Hội Chủ Nghĩa nữa chứ”. 

Tôi hiểu ý kiến này muốn nói đến mục tiêu XHCN gắn với ý thức hệ trong mối quan hệ với Trung Quốc. Tôi không bác bỏ mục tiêu XHCN, nhưng đó là CNXH theo cách hiểu mà tôi cho là khoa học, khác xa cái CNXH theo mô hình của Liên-xô, Trung Quốc.

Theo tôi, cần tiếp cận CNXH theo hệ giá trị – đó là những giá trị tốt đẹp thật sự, đạt được trong đời sống xã hội, chứ không phải theo mô hình thế này và thế kia, càng không phải bằng từ ngữ và khẩu hiệu.

CNXH theo nghĩa chân chính thì nhất thiết phải là kết quả của một trình độ phát triển rất cao của dân tộc và dân chủ xã hội, chứ không phải là những ý muốn chủ quan được vạch ra để bắt hiện thực phải khuôn theo. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc độc lập và phát triển, xã hội thật sự dân chủ, con người thật sự tự do và hanh phúc thì đó mới chính là con đường đúng đắn tiến tới CNXH, chứ không phải như mô hình của Liên-xô, Trung Quốc và phe XHCN trước đây.

Để mất nước, mất độc lập, hoặc dân tộc bị kìm hãm không thể phát triển vượt lên, xã hội mất dân chủ thì CNXH chỉ là chuyện hão huyền, không bao giờ có thật. Chúng ta đã nêu rất nhiều khẩu hiệu về CNXH nhưng đến nay trên thực tế thì các nước tư bản phát triển (CNTB hiện đại) mới là những nước đã đến gần nhất với CNXH mặc dù họ không có khẩu hiệu nào và mặc dù họ vẫn còn rất nhiều khuyết điểm.

Nói các nước tư bản phát triển, nhất là Bắc Âu và khu vực gần đó, đang gần nhất với CNXH là trên cơ sở nghiên cứu về năng suất lao động xã hội, thu nhập bình quân đầu người, vai trò của sở hữu xã hội, vấn đề phúc lợi xã hội, giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền tự do và dân chủ… Còn Việt Nam ta thì nằm ở khoảng cách phía sau xa so với các nước đó, và càng xa hơn nữa đối với mục tiêu XHCN, thậm chí trong lòng xã hội VN hiện tại đang bao gồm rất nhiều yếu tố của CNTB hoang dã trộn lẫn các tàn dư phong kiến.  Còn Trung Quốc thì thực chất đã biến tướng thành một đế chế phong kiến độc tài và bành trướng bá quyền cộng với CNTB hoang dã. Nếu đem Trung Quốc, hay Liên-xô trước đây, ra so sánh với các nước tư bản phát triển thì chính các nước tư bản phát triển ấy lại gần CNXH hơn.

CNTB hiện đại ngày nay cũng đã khác rất xa, khác về chất so với CNTB hoang dã thời Marx đã sống và viết Tư bản luận. Chính họ (chứ không phải Liên-xô hay Trung Quốc) đang và sẽ tiếp tục chứng minh nhận định của Marx là đúng. Đó mới là tư duy khoa học chứ không phải kiểu lý luận giáo điều đã bị chính trị hóa về mô hình CNXH sai lầm của phe XHCN trước đây mà mãi đến nay vẫn chưa khắc phục xong. Còn cái tư duy về hai hệ tư tưởng chia thành hai phe đối lập nhau là TBCN và XHCN thì đã lạc hậu lắm rồi.

Đó là sự sai lầm hơn một thế kỷ của nhiều nước, bắt đầu từ những người đứng đầu mấy nước lớn ở hai phe, đã gây ra rất nhiều mâu thuẫn trong cộng đồng quốc tế và những cuộc chiến tranh gây chết chóc đau thương cho nhiều chục triệu người, để rồi cuối cùng sau gần một thế kỷ phải quay lại coi nhau là đối tác, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung của thế giới và khu vực. Việc chuyển từ thù địch sang làm đối tác và bè bạn của nhau là xu hướng tiến bộ, đúng đắn, nhưng chính điều đó cũng đã chứng tỏ việc phân chia thành hai hệ tư tưởng thù địch như trước đây là sai lầm nghiêm trọng. Với cái kiểu của Trung Quốc như hiện nay mà cứ nhân danh CNXH và hệ tư tưởng để đi theo họ trong khi không đủ bản lĩnh và trí tuệ để ứng xử thì ta chẳng những sẽ mất độc lập chủ quyền mà còn có nguy cơ bị đồng hóa chứ không bao giờ đến được CNXH chân chính (tôi dùng chữ chân chính ở đây để phân biệt với cái biến tướng, lợi dụng, nhân danh, giả mạo, lừa phỉnh).

Tất nhiên ta luôn thật lòng mong muốn quan hệ hữu hảo để hợp tác cùng phát triển và làm đối tác tốt của Trung Quốc cũng như các nước khác. Nhưng đó phải là đối tác bình đẳng và được tôn trọng chủ quyền, cũng như độc lập tự do về tư tưởng và tự quyết định mọi công việc.

7. Cũng có ý kiến nêu vấn đề có tính nguyên tắc trong giải quyết chuyện Biển Đông là, ngoài việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, phải giữ cho được hòa bình và quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. 

Mới nghe qua dễ nghĩ rằng phương châm đó là đúng bởi vì ai cũng mong muốn hòa bình để xây dựng đất nước. Nhưng phải suy nghĩ sâu hơn đối với vấn đề này. Nếu cùng lúc đạt được cả ba mục tiêu (chủ quyền, hòa bình và hữu nghị) thì quá tốt rồi, không còn gì bằng. Ai mà chẳng muốn thế? Phương châm ứng xử ấy không riêng đối với Trung Quốc mà đối với tất cả các quốc gia khác cũng vậy thôi. Và tư duy đó đã có từ lâu rồi chứ không phải do ai mới nghĩ ra hôm nay. Có từ lâu rồi nhưng tình hình thực tế đến nay cho thấy ta không (hoặc chưa) thành công, chỉ vì Trung Quốc không muốn thế.

Ta dại gì lại đi gây chiến hoặc bất hòa với một nước lớn ở bên cạnh mình. Nhưng yêu cầu hòa bình và hữu nghị ấy phải trên nguyên tắc cao nhất là đôi bên tôn trọng chủ quyền của nhau, họ không xâm lăng chiếm Biển, chiếm đất của ta.

Hòa bình và hữu nghị phải do từ hai phía. Một mình ta có muốn bao nhiêu cũng không được nếu như Trung Quốc chẳng cần thứ ấy mà chỉ cần lấy cho được biển của nước ta. Thực tế đã cho thấy họ đâu có cần hữu nghị với VN.

Ta không thể đem chủ quyền để đổi lấy hữu nghị và hòa bình một cách hình thức. Nếu làm như thế thì hữu nghị hòa bình ấy cũng chỉ là một kiểu nô lệ. Đó là “hòa bình, hữu nghị nô lệ”. Không thể chấp nhận mất chủ quyền, đó là vấn đề có tính nguyên tắc. Vậy nên, điều cốt lõi chi phối mọi việc ở đây là phải bảo vệ cho được chủ quyền. Còn hòa bình hữu nghị cũng là yêu cầu cần thiết nhưng phải trên cơ sở của nguyên tắc cao nhất là bảo đảm chủ quyền. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” như Hồ Chí Minh đã nói là chân lý thiêng liêng mà vì nó bao nhiêu con người yêu nước đã phải ngã xuống cho đất nước này. Với bản chất và âm mưu của Trung Quốc như vậy mà yêu cầu phải đạt được đồng thời cùng lúc cả ba mục tiêu như nhau (là chủ quyền, hòa bình và hữu nghị) thì giống như đánh đố, tự làm bí đường cho quân ta.

8. Có ý kiến phê phán chiều hướng muốn nghiêng về phía Mỹ và Phương Tây, muốn tăng cường quan hệ Việt-Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện và lưu ý phải đề phòng có ngày Mỹ và Trung Quốc thỏa hiệp với nhau, bán đứng ta hoặc bỏ ta giữa đường. 

Đúng là trong thực tế trước đây mấy nước lớn đã từng có lúc “bán” Việt Nam, trong đó phải kể nhiều nhất là Trung Quốc. Suy nghĩ cho chín chắn mọi điều là cần thiết, nhưng đồng thời cũng đừng để cho sự đa nghi hoặc chịu ảnh hưởng của chiến tranh tâm lý tung ra từ Phương Bắc làm cho ta không thấy được đường ra mà cứ nằm mãi trong vùng ảnh hưởng của họ. Sao lại đặt vấn đề phải nghiêng bên này hay bên kia?

Việt Nam phải là một dân tộc trưởng thành, một dân tộc văn hiến, biết đứng vững trên đôi chân của chính mình bằng tinh thần độc lập và tự cường, không phụ thuộc, không thụ động hay dựa dẫm ỷ lại vào bất kỳ ai, kể cả đối với bạn tốt. Mà đã là bạn tốt thì không ai lại muốn ta thụ động và dựa dẫm.

Chỉ có độc lập và tự lập mới giúp ta thật sự trưởng thành. Trước tiên phải biết dựa vào sức mạnh của một dân tộc có bản lĩnh, có truyền thống yêu nước, biết tự trọng, tự lực và anh hùng sáng tạo trong đấu tranh giữ nước. Người ta có thể chiến thắng một đạo quân, nhưng không ai có thể chiến thắng nổi một dân tộc kiên cường và thống nhất. Đồng thời tất nhiên cũng rất cần, luôn cần bạn bè tốt để gắn bó thủy chung, nhất là trong lúc khó khăn hoạn nạn có nhau. Như bài trước tôi đã nói, chỗ dựa vững chắc và đáng tin cậy nhất là nhân dân, là cộng đồng dân tộc. Xa rời nhân dân, không hành động theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân thì sẽ đánh mất tính chính danh và không còn sức mạnh để chiến đấu.

Sự thận trọng là cần thiết, nhưng nếu cứ luôn đặt câu hỏi rằng không biết sau này ai sẽ tốt mãi với ta và ai sẽ không thủy chung nữa, hay nước nào sẽ thỏa hiệp điều gì với nước nào trong cơ chế thị trường này thì chẳng thể nào có câu trả lời hoàn hảo được. Hiện tại thấy ai tốt thật lòng, trong đó có việc đầu tiên là tôn trọng chủ quyền và lợi ích chính đáng của ta thì kết bạn, nhất là khi xét thấy lợi ích chính đáng của đôi bên không mâu thuẫn nhau. Việt Nam là một dân tộc thủy chung với bạn bè, không bao giờ phản bạn. Còn ai không tốt với mình nữa thì không cần phải chơi thân đến mức mất cảnh giác như thời An Dương Vương. Một nước có thể hôm qua là đối tác chiến lược nhưng hôm nay lại chơi xấu – xâm phạm chủ quyền quốc gia của chúng ta thì có thể dừng (hoặc tạm dừng) đối tác chiến lược. Đó là chuyện rất bình thường. Thế giới vẫn sống với nhau như vậy đó thôi.

Có ý kiến còn nói đi với Tàu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất chế độ, cả hai ông này đều nguy hiểm, không thể chơi thân với ai được.

Ý kiến này thuộc loại không tin ai cả, cảnh giác tất cả. Về thực chất thì đó cũng là một cách suy nghĩ theo lối thụ động, không tin vào chính mình. Sao lại nghĩ sẽ mất cái này hoặc cái kia nếu đi với ông này hoặc ông kia. Mất cái này hay cái kia thì chính là tại mình, do mình, chứ đừng đổ lỗi cho ai. Biết dựa vào dân, tôn trọng và phát huy dân chủ, không tham nhũng, được nhân dân tin tưởng thì nước không mất và chế độ cũng vậy. Không lắng nghe nhân dân, không theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân, mất dân chủ, để cho lòng dân ly tán thì nước sẽ mất và chế độ cũng sẽ không còn. Mà việc gắn bó máu thịt hay không gắn bó với nhân dân là do ta chứ không phải do Tàu hay do Mỹ, đừng đổ lỗi cho bất kỳ ai.

Giữa Tổ quốc và Chế độ thì Tổ quốc đương nhiên phải là trên hết. Chế độ chân chính nào cũng phải phục vụ cho Tổ quốc chứ không phải ngược lại. Đồng thời, chế độ chính trị lúc nào cũng là một vấn đề đại sự. Một chế độ tốt được nhân dân ủng hộ sẽ giữ nước được lâu bền, một chế không tốt làm cho nhân dân ly tán và oán giận sẽ dẫn đến mất nước. Cần phải xây dựng một chế độ tốt cũng là kế sách để giữ nước lâu bền. Thế giới đã có những thay đổi lớn. Tàu hay Mỹ bây giờ cũng đều khác xưa. Tàu ngày xưa đã có lúc giúp ta (dù với động cơ này hay động cơ khác). Tàu bây giờ đang quyết liệt chiếm biển của ta. Mỹ ngày trước coi Đảng Cộng sản Việt Nam là đối thủ. Mỹ bây giờ coi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là đối tác, Tổng thống Mỹ đã mời Tổng Bí thư Việt Nam sang Nhà Trắng ở Washington để bàn chương trình hợp tác lâu dài.

Còn nói mất chế độ là chế độ gì? Nếu phong kiến thì mất càng tốt chứ sao. Nếu tư bản hoang dã thì cũng cần phải bỏ đi. Thế giới văn minh đã từ bỏ phong kiến và tư bản hoang dã. Còn chế độ XHCN thì chưa có (mà còn lâu lắm cũng không biết lúc nào mới có – như một vị lãnh đạo nước ta đã nói). CNTB hiện đại cũng chưa có. Vậy sợ mất chế độ nói ở đây thực chất là mất cái gì? Chắc người ta muốn nói đến chế độ xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam đang lãnh đạo, nói cách khác là sợ mất vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN. Việc ấy thì chẳng ai có thể vào đây mà đánh mất được, chỉ trừ khi Đảng tự mình đánh mất. Mất còn ở đây phụ thuộc lòng tin của nhân dân. Mà lòng tin của nhân dân thì lại do sự trong sạch, chân chính và năng lực lãnh đạo của Đảng tạo nên, hoặc có hoặc không, hoặc còn hoặc mất. Muốn giữ thì cần phải giữ cái điều cốt lõi ấy chứ không phải đi giữ cái khác mà được đâu. Nếu không giữ được lòng tin của nhân dân thì không có Tàu, không có Mỹ cũng sẽ thất bại.

9. Nói tới việc lựa chọn Phương Bắc hay Phương Tây thì câu chuyện sẽ rộng hơn và liên quan đến con đường phát triển. Nhưng đã có ý kiến phản biện thì nhân đây tôi cũng xin nêu mấy ý kiến của mình. 

Gần hai thế kỷ trước đây Marx đã phân chia quá trình phát triển của nhân loại sẽ lần lượt đi qua 5 giai đoạn theo các hình thái kinh tế xã hội là: Nguyên Thủy, Nô Lệ, Phong Kiến, Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa. Ta tôn trọng cách phân chia đó của ông. Nhưng quan sát thực tế một thế kỷ vừa qua những gì đã xảy ra ở Liên-xô và Đông Âu cho thấy lịch sử đã không như thế mà nhiều nước từ phong kiến lên thẳng XHCN và sau đó 7-8 thập kỷ thì lại từ XHCN ấy chuyển tiếp sang TBCN. Marx đã sai ở đây chăng? Theo tôi, trong vấn đề này ông không sai, mặc dù không phải Marx nói cái gì cũng đúng. Vậy ở đây là cái gì, giải thích ra sao? Cái XHCN ở Liên-xô và Đông Âu trước đây không phải là XHCN như tư duy của Marx. Trung Quốc và Việt Nam ta cũng bắt đầu từ đó.

Tôi không phản đối ý kiến cho rằng, lịch sử ở một nước nào đó cũng có thể đi tắt đón đầu, nhưng phải hành động đúng quy luật khách quan, chứ không thể bằng ý chí chủ quan áp đặt, càng không thể thay thế nền tảng vật chất chưa có bằng bất cứ thứ chuyên chính gì. Bên cạnh cách phân chia giai đoạn như Marx, theo tôi có thể có một cách phân chia nữa, không phải theo hình thái kinh tế xã hội mà theo trình độ phát triển. Đó là các giai đoạn: Chưa phát triển, phát triển thấp, phát triển trung bình, phát triển cao và phát triển rất cao. (Lâu nay người ta thường nói là các nước chưa phát triển, đang phát triển và phát triển). Sự phát triển nói ở đây bao gồm cả số lượng và chất lượng; cả kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và nhất là con người.

Tìm mối liên hệ giữa hai cách phân chia giai đoạn như trên ta có thể thấy, ứng với CNTB là giai đoạn phát triển cao và ứng với CNXH phải là giai đoạn tiếp theo-phát triển rất cao. Theo đó, chính sự phát triển mới quyết định có hay không có CNXH, còn mọi thứ khác đều không thể đem lại CNXH. Xin chớ lầm tưởng mà sai đường. Hiện tại, các nước tư bản phát triển đã vượt xa các nước gọi là XHCN. Dù nói rất nhiều về mục tiêu XHCN nhưng nếu không phát triển thì chẳng có CNXH nào đâu. Dù không nói CNXH nhưng nếu phát triển tốt thì tất yếu sẽ có CNXH. Vì vậy mà ở phần trên tôi đã nói chính các nước tư bản phát triển mới là những nước tiến đến gần nhất CNXH. Theo đó, trong tư duy của tôi, CNXH và CNTB khác nhau chủ yếu là ở trình độ phát triển, chứ không phải ở tính chất khác biệt hay đối lập. Quá trình phát triển ấy như một sự tiếp nối tự nhiên chứ không phải là sự “lật đổ” và “thay thế”.

Phương Tây nhìn chung đã phát triển hơn Phương Đông. Mỹ, Châu Âu, nhất là khu vực Bắc Âu và một số nước gần đó, đã phát triển hơn Trung Quốc, Việt Nam… Ngày xưa, có thời kỳ Châu Âu cũng chưa phát triển được, còn trong đêm dài của chế độ thần quyền, ai nói khác Giáo hội có thể bị đưa lên giàn hỏa thiêu hoặc giá treo cổ. Sau đó, nhờ các phong trào Khai sáng, Phục hưng… đã thế tục hóa, giải phóng cho con người được tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, từ đó mà có con đường để tiếp cận các chân lý khách quan. Châu Âu đã phát triển vượt lên. Trong khi đó Châu Á vẫn trong đêm dài của chế độ phong kiến kìm hãm con người nên đã nằm lại ở phía sau xa trong tiến trình phát triển.

Vào cuối thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 nhiều nước ở Châu Á đã bị các đối thủ từ Châu Âu phát triển hơn mình một nền văn minh đã đến chinh phục và đô hộ. Trong Châu Á ấy, có một số nước sớm nhận ra mặt ưu điểm của văn minh Phương Tây, họ đã biết tiếp thu và vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình nên đã phát triển vượt lên, đa số nước còn lại nhìn chung vẫn chậm chạp và tụt hậu so với thế giới văn minh.

Nước ta chịu ảnh hưởng khá nhiều của văn hóa Phương Bắc và thực tế cho thấy đến nay chúng ta vẫn còn tụt hậu khá xa ở rất nhiều mặt. Nền văn hóa Việt Nam của chúng ta có mặt mạnh nổi trội thuộc về văn hóa (trong) giữ nước và mặt yếu cũng nổi rõ thuộc về văn hóa (trong) phát triển.

Nước ta nhiều lần bị mất nước không phải vì ta là nước nhỏ hoặc vì thiếu anh hùng, mà là vì sự lạc hậu. Khi mất nước rồi, bằng rất nhiều máu xương và sự anh hùng, cha ông ta đã lấy lại đất nước. Giành lại được nước rồi nhưng vẫn không phát triển, vẫn lạc hậu, và lại mất nước lần nữa. Cứ thế, lịch sử đã lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy. Cái nguyên nhân mất nước ấy chỉ có thể giải quyết bằng sự phát triển mạnh lên mới là cách căn bản và lâu dài.

Nếu từ nay trở đi, đồng thời với việc tiếp tục chọn lọc và phát huy phần tinh hoa văn hóa của dân tộc nói riêng, của Phương Đông nói chung, chúng ta biết cầu thị và tích cực nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc phần tinh hoa văn hóa của Phương Tây để phát triển dân tộc và quốc gia Việt Nam thì thiển nghĩ đó cũng là cách hợp lý và rất cần thiết. Muốn vậy, cần phải có một sự chuyển hướng, cải cách căn bản để phát triển. Không phát triển ta chẳng những không đạt được mục tiêu lý tưởng nào mà có thể còn mất độc lập dân tộc trong thời đại mới theo cách này hoặc cách khác.

10. Thực tế lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới cho thấy có nhiều con đường khác nhau để phát triển, nhưng trong đó nổi rõ có hai con đường chủ yếu. Thứ nhất, phát triển bằng thể chế dân chủ và tự do, dựa chính vào nhân tố con người. Người ta thường gọi đó là “con đường dân chủ”. Thứ hai, phát triển bằng sự tập trung quyền lực, toàn trị, mệnh lệnh, mất dân chủ và thậm chí kể cả độc tài. Người ta còn gọi đó là “con đường chuyên chính”.

Cả hai con đường đó đều có thể phát triển. Một bên dựa chính vào nhân tố động lực con người, còn bên kia thì dựa chính vào khả năng tập trung nguồn lực và quyền lực. Và đương nhiên con đường nào cũng đều có những gian khổ, chông gai, đừng nghĩ con đường nào là bằng phẳng, dễ dàng và chỉ có ưu điểm. Phương Tây ngày nay rất nhiều nước phát triển theo con đường thứ nhất. Phương Đông trước kia nhiều nước đi theo con đường thứ hai, nhưng thời kỳ sau đó đã có một số nước chuyển đổi theo con đường thứ nhất và họ đã thành công. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapor, Đài Loan là loại nước và vùng lãnh thổ kiểu đó. Liên-xô trước đây cũng như Trung Quốc ngày nay đã có những thành công nhất định theo con đường thứ hai. Cả hai nước này thì Liên-xô đã từng và Trung Quốc ngày nay đang trở thành nước có nền kinh tế thứ nhì thế giới nếu tính theo tổng sản phẩm quốc nội.

Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn, thì sẽ thấy sự phát triển theo con đường thứ nhất mới bền vững, nhân dân hạnh phúc hơn vì có tự do, dân chủ, vấn đề con người được đặt vào vị trí trung tâm. Con đường thứ hai tuy cũng có thể phát triển nhanh trong một giai đoạn nào đó, nhưng nhân dân không hạnh phúc vì thiếu tự do dân chủ, và chắc chắn sự phát triển đó sẽ không bền vững, sẽ có khủng hoảng lớn về xã hội sau chu kỳ phát triển mạnh. Liên-xô trước đây và ngay cả Việt Nam ta thời Lê Thánh Tông… cũng đã cho thấy như vậy. Con đường phát triển thứ nhất là con đường mà rất nhiều nước tiên tiến trên thế giới đang đi, trong đó có các nước Tư bản hiện đại (chứ không phải như CNTB hoang dã ngày trước). Dân chủ cũng (phải) là vấn đề có tính bản chất của CNXH, là con đường đúng nhất để đến với CNXH chân chính. Đó là xu thế tiến bộ, xu thế lịch sử-thời đại. Thiết nghĩ, nước ta nên lựa chọn con đường thứ nhất – phát triển bền vững, có tự do dân chủ và hạnh phúc của nhân dân. Con đường ấy phù hợp với mong muốn của nhân dân Việt Nam. Đừng bao giờ quên mục tiêu “Dân chủ-độc lập-tự do-hạnh phúc” là các thành tố và tiêu đề của tên nước đã được nêu ra từ ngày tuyên bố độc lập năm 1945. Khi có quyền lực trong tay, bị quyền lực cám dỗ, nhiều người dễ quên đi mục tiêu dân chủ, thậm chí có người còn cao ngạo coi nhân dân chẳng ra gì, cứ như thể chỉ có mình mới là sáng suốt. Đi con đường thứ nhất ta còn có được cả khối dân chủ của thế giới văn minh, không phải đơn độc mỗi khi bị người khác bắt nạt.

Tôi biết cũng có ý kiến lo lắng rằng, nếu đi theo con đường dân chủ thì không biết Đảng Cộng sản có giữ được vai trò lãnh đạo không, hay đất nước lại bất ổn chính trị kéo dài (thậm chí sẽ đổ máu) do sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái, các nhóm cơ hội chính trị?

Đặt câu hỏi như vậy cũng là dễ hiểu và đó là một câu hỏi nghiêm túc.

Nhưng nghĩ như vậy thì chẳng lẽ Đảng Cộng sản chỉ có thể giữ quyền lãnh đạo bằng cách mất dân chủ hay sao? (Trong khi mất dân chủ là trái với mục tiêu phấn đấu mà Đảng đã nêu ra). Nghĩ như vậy cũng là không còn tin tưởng vào khả năng của Đảng?

Tôi thì không nghĩ như thế. Tôi nghĩ khác. Trong môi trường dân chủ Đảng sẽ trưởng thành và tốt hơn. Trong môi trường không dân chủ mà tập trung quyền lực thì Đảng cầm quyền sẽ thoái hóa. Đi theo con đường dân chủ, Đảng không thoái hóa mà lại trưởng thành, tốt hơn, giương cao ngọn cờ dân chủ và xứng đáng với ngọn cờ ấy là con đường để Đảng trường tồn cùng với sự phát triển của dân tộc và đất nước. Khác đi, để Đảng bị thoái hóa quyền lực thì Đảng sẽ tự kết thúc sứ mệnh của mình. Lúc đó có muốn giữ cũng không giữ được.

Đặc điểm của nước ta đến nay chỉ có một lực lượng chính trị duy nhất là Đảng Cộng sản đang lãnh đạo. Nếu Đảng thoái hóa và mất hết lòng tin của nhân dân rồi, không còn lãnh đạo được nữa, thì lúc ấy lực lượng nào sẽ lãnh đạo? (Mà đất nước thì không thể không có lãnh đạo chính trị!)

Một người bạn đã đặt cho tôi câu hỏi đó. Tôi nghĩ không phải lo như vậy đâu, cuộc sống sẽ tự mở đường. Trong Đảng dù có thoái hóa nữa vẫn còn nhiều người tốt, bộ phận tiên tiến đó cộng với các trí thức chân chính có tâm huyết với dân tộc và nhiều người yêu nước khác… họ sẽ tập họp nhau lại để thực hiện trách nhiệm với Tổ quốc. Đó là nói trong trường hợp xấu nhất cho hết ý vậy thôi, chứ tôi tin một Đảng chính trị đã được rèn luyện như Đảng CSVN không dễ gì đầu hàng sự thoái hóa của chính mình để nhận lấy thất bại và tan rã.

Khi Đảng CSVN giương cao ngọn cờ dân chủ, đại diện chân chính cho ngọn cờ đó, thúc đẩy thành công sự nghiệp ấy thì tôi tin nhất định nhân dân sẽ ủng hộ Đảng tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo đất nước. (Xin nói thêm, không đồng nhất con đường dân chủ với chế độ đa đảng, mặc dù hai vấn đề đó có mối quan hệ nhất định với nhau – việc này sẽ bàn sau trong một bài khác).

11. Về nước Mỹ và mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, tôi cũng xin bình luận ít lời. 

Họ tuyên bố độc lập cách đây 243 năm. Khoảng 100 năm trước đây họ đã là một quốc gia phát triển mạnh nhất thế giới. Vậy là chỉ khoảng 143 năm sau khi độc lập họ đã phát triển như vậy, trong khi nhiều nước khác tuyên bố độc lập trước họ rất lâu mà mãi đến nay vẫn còn ở phía sau xa. Thực tế đó cho thấy họ có nhiều kinh nghiệm phát triển bậc nhất thế giới. Theo một số học giả của Mỹ và thế giới, nguyên nhân thành công trước tiên thuộc về giáo dục. Một nền giáo dục khai mở và sáng tạo. Theo một số đánh giá của tổ chức quốc tế và các chuyên gia về giáo dục, trong 100 trường đại học được cho là top hàng đầu thế giới thì riêng nước Mỹ đã chiếm một nửa, còn lại tất cả các quốc gia khác trên khắp thế giới cộng lại chỉ bằng một nước Mỹ. Và, nếu tôi nhớ không nhầm thì cách đây gần 100 năm chính Lê-nin đã có lần nói phải đi học nền giáo dục của nước Mỹ để về xây dựng và phát triển Liên Bang Xô Viết. Rất tiếc là sau đó người ta đã không làm như thế.

Mỹ cũng là nước có thị trường hàng hóa, thị trường công nghệ và thị trường vốn đứng đầu thế giới. Ngay cả Trung Quốc cách đây không lâu cũng đã tập trung đi học kinh nghiệm của Mỹ và nhờ họ giúp đỡ để thực hiện cải cách. Từ đó, Trung Quốc tiến vượt lên về kinh tế. Đặc biệt trong thời gian gần đây, Mỹ là quốc gia luôn lên tiếng đầu tiên và lên tiếng mạnh mẽ nhất để phê phán sự xâm lăng của Trung Quốc, ủng hộ việc bảo vệ chủ quyền biển của Việt Nam. Lợi ích của ta và họ trên Biển Đông hiện tại về cơ bản không mâu thuẫn mà phù hợp nhau. Trong quan hệ đa phương hiện nay, nếu tăng cường được mối quan hệ hữu nghị hợp tác với một quốc gia như nước Mỹ để trao đổi và tiếp thu kinh nghiệm phát triển của họ thì đó là việc cần thiết và nên làm đối với nước ta./.

TP. HCM ngày 20.10.2019

V.N.H.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Biển Đông. Bookmark the permalink.