GS Hoàng Tụy, một người đồng hương của tôi

Nguyễn Đăng Hưng

Giáo sư Danh dự trường ĐH Liège, Bỉ

Cây đại thụ của nền toán học Việt Nam, một nhân cách lớn của trí thức Việt Nam, một hình ảnh tiêu biểu của sỹ phu thời hiện đại vừa qua đời, để lại biết bao thương tiếc, ngưỡng mộ cho người Việt khắp nơi, đặc biệt giới tinh hoa nước nhà.

Để thắp dâng ông nén hương lòng của kẻ hậu sinh, tôi xin trân trọng giới thiệu lại bài viết sau đây, được thực hiện đã hơn một con giáp, nhân ngày sinh nhật thứ 80 của ông.

Nguyễn Đăng Hưng

Sài Gòn ngày 15/7/2019

Tôi nghe danh tiếng GS Hoàng Tụy từ lâu, nhưng mãi đến hè năm 2004 mới gặp được ông.

Tôi về Hà Nội mỗi năm hai lần để lo cho chương trình cao học Bỉ-Việt MCMC (Modeling and Computation in Mechanic of Continuum). Biết tôi đang ở Hà Nội, ông nhắn tin mời tôi đến tham dự buổi thảo luận cuối cùng về “Kiến nghị chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”, được tổ chức ngay tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, đường Đại Cồ Việt, cách văn phòng cao học Bỉ-Việt MCMC của tôi, đặt tại trường ĐH Bách khoa Hà Nội có 5 phút đi bộ.

Tôi là kẻ tới sau, lại đến hơi muộn. Đây là lần họp cuối cùng. Phòng họp có mặt rất đông các nhà giáo, các trí thức có tiếng tăm, tôi không nhớ hết: Phan Đình Diệu, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Văn Đạo, Phạm Huy Điển, Nguyễn Xuân Hãn, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Duy Hiển, Phan Huy Lê, Nguyên Ngọc, Nguyễn Đình Trí, Ngô Việt Trung, Lê Ngọc Trà… Có cả sự tham dự của các quan chức: Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển, các Thứ trưởng Trần văn Nhung, Bành Tiến Long…

Trong phòng họp, tôi chú ý đến một người tuổi đã cao, tóc trắng như tuyết, nét mặt đăm chiêu như chất chứa cả một trời suy tư, giọng nói vẫn còn mạnh mẽ, trẻ trung, rất hợp với một nội dung đầy tâm huyết và khí phách! Tôi đoán ngay đó là GS Hoàng Tụy.

Hôm ấy GS Hoàng Tụy là người nói cuối cùng và bản văn quan trọng này: “Kiến nghị cuả Hội thảo về Chấn hưng, Cải cách, Hiện đại hoá Giáo dục” đã được gởi đến chính phủ sau đó một thời gian ngắn, có chữ ký của 7 đồng nghiệp Việt kiều trong đó có tôi (Lê Văn Cường, Nguyễn Đăng Hưng, Bùi Trọng Liễu, Tôn Thất Nguyễn Thiêm, Trần Văn Thọ, Lê Dũng Tráng, Trương Nguyên Trân).

Qua việc này, tôi phát hiện Giáo sư Hoàng Tụy là người có khả năng kết hợp trí thức trong và ngoài nước trong công cuộc cải cách và hiện đại hóa giáo dục. GS đúng là một nhà giáo dục, một nhà văn hóa, một nhà hoạt động xã hội có uy tín lớn cả ở trong nước và ngoài nước vậy.

Những lần gặp trước đây, tôi chỉ gặp GS Hoàng Tụy qua sách vở. Chuyên môn của tôi là tính toán cấu trúc phức tạp liên quan đến ngành xây dựng công trình. Trong lĩnh vực này, tối ưu hóa là một phương tiện toán học cần thiết. Nhất là bài toán xác định giới hạn sức chịu đựng của cấu trúc khi tải trọng tăng cao, khiến vật thể chuyển từ trạng thái đàn hồi qua trạng thái chảy dẻo. Bài toán càng trở nên phức tạp khi vật liệu có khả năng mềm đi. Lúc đó tính lồi của hàm năng lượng không còn nữa và những thuật toán đặc biệt là cần thiết nếu ta muốn có giải đáp xấp xỉ của bài toán. Đây chính là vùng hoạt động của phép tính tối ưu toàn cục.

Mùa thu năm 1986, tôi sang thăm Giáo sư Panagiotopoulos, Trưởng khoa xây dựng, Aristotle University of Thessaloniki, một trường Đại học lớn vào bậc nhất của nước Hy lạp để bàn với ông về một dự án do Cộng đồng Châu Âu tài trợ, một dự án nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực này. Nếu tôi có kinh nghiệm nhiều năm về những phương pháp tính xấp xỉ bằng cách rời rạc hóa không gian, thì Giáo sư Panagiotopoulos là người đã có sách xuất bản về việc áp dụng những thành quả của phép tối ưu hóa trong các lĩnh vực cơ học. Việc cộng tác nghiên cứu ngay từ đầu của chúng tôi sẽ nâng cao tính khả thi của kết những kết quả cụ thể chờ đợi.

Chính qua những lần trao đổi với GS Panagiotopoulos mà tôi bắt đầu làm quen với "thuật toán kiểu Tuỵ" (Tuy-type algorithm), “lát cắt Tuỵ” (Tuy’s cut) và trường phái Hà Nội về tối ưu toàn cục mà GS Hoàng Tụy là người sáng lập.

Hai năm sau, được sự ủng hộ của các công ty công nghệ hàng đầu Châu Âu, được sự tham gia của đông đảo đồng nghiệp ở Đức, Pháp, Hy Lạp và Bỉ, dự án đã được tài trợ với một kinh phí lên đến gần 1 triệu rưỡi euro trong năm năm. Nhắc đến những chi tiết chuyên môn này, tôi muốn nói đến tính thực tiễn trong cống hiến khoa học của GS Hoàng Tụy, ít ra trong lĩnh vực chuyên môn công nghệ của tôi.

Năm 1995, tôi bắt đầu xây dựng các văn phòng Đào tạo cao học Bỉ-Việt về ngành chuyên môn của tôi: “Mô hình và mô phỏng các môi trường liên tục bằng máy tính”, bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh (EMMC) và 3 sau năm tại Hà Nội (MCMC). Trong thâm tâm, ngay từ đầu tôi muốn thành lập một trung tâm đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ quốc tế đa ngành tại Việt Nam. Nhưng vì lực bất tòng tâm, tôi chỉ làm được có thế thôi.

Đọc bài “Nhà toán học Hoàng Tụy” trên báo Diễn Đàn – Forum của GS Bùi Trọng Liễu (Paris), tôi mới biết cùng năm ấy, GS Hoàng Tụy, cũng có ý định thành lập một «Trung tâm đào tạo Toán học ứng dụng». Theo anh Liễu, GS Hoàng Tụy muốn có tại Việt Nam “một cơ sở tồn tại dưới một dạng có quy chế riêng, ngân quỹ riêng, độc lập trong quản lý, và được phép giảng dạy và đào tạo và được công nhận phát bằng cấp như một cơ sở đại học, tuy nó không tổ chức đào tạo các cấp bên dưới tiến sĩ, thạc sĩ”.

Việc này đã không thành. Và anh Liễu có thêm lời bàn: “Phải chăng đề án không thành là vì khả năng thực sự hiểu vấn đề giáo dục đại học của một số nhà trách nhiệm chiến lược và quản lý, quá giới hạn?”.

Là người trong cuộc đã lăn lộn gần 15 năm để xây dựng và duy trì các chương trình cao học Bỉ-Việt tại Việt Nam, tôi xin xác nhận lời bàn này rất là chí lý.

Các chương trình EMMC hay MCMC phần nào thành công được (319 thạc sỹ tốt nghiệp trong số đó 120 người đã bảo vệ thành công hay đang chuẩn bị bảo vệ luận án Tiến sỹ tại các nước tiên tiến) là vì đây là những chương trình có 100% ngân sách được Bỉ và Liên Hiệp Châu Âu tài trợ, do một ĐH Bỉ chính thức cấp bằng và do một giáo sư người Bỉ bỏ ra 60% thời giờ của mình để thường trực quản lý học thuật, nhân sự và tài chính.

Rất tiếc là năm ấy tôi chưa có duyên được quen biết và giao lưu với giáo sư Hoàng Tụy. Ở đây tôi xin ghi lại lòng cảm phục của mình trước tầm nhìn của một bậc đàn anh. Ở GS Hoàng Tụy, toán học không dừng lại ở những công trình bác học hàn lâm mà còn là cơ sở thực tiễn để phát triển đất nước vậy.

Mùa thu năm 2006, tôi chính thức lấy hưu trí tại ĐH Liège, Bỉ. Các học trò thân thích của tôi đã đồng ý cho ra đời một tuyển tập những bài báo mà họ cho là tâm đắc nhất, Đại học Quốc gia TP HCM xuất bản.

Tôi rất đỗi vui mừng khi hay tin GS Hoàng Tụy đã nhận viết lời tựa với nguyên văn sau đây:

“…Đã hơn 45 năm rồi kể từ ngày GS Nguyễn Đăng Hưng xuất dương du học, sau đó nghiên cứu khoa học và giảng dạy trại trường Đại học Liège, Bỉ. Cũng đã hơn 15 năm ông đã hướng về Việt Nam, giành một phần quan trọng thời gian của mình cho việc mở những chương trình đào tạo đẳng cấp quốc tế, lớp EMMC (1995) tại trường ĐH Bách khoa TP HCM và lớp MCMC (1998) tại trường ĐH Bách khoa Hà Nội.

Trong khoảng thời gian dài này, ông đã không mệt mỏi tham gia giúp Việt Nam mở các khoá đào tạo chuyên sâu về ngành tính toán các ngành cơ khí và xây dựng công trình. 
Trong sự nghiệp nhà giáo của mình, hàng trăm học viên do ông trực tiếp hướng dẫn đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ của mình tại Bỉ cũng như tại Việt Nam. Các học trò của ông, đến từ nhiều nước trên thế giới, mong mỏi đáp ơn người thầy của mình, cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Để thể hiện cụ thể tấm tình này, một cuốn sách tập hợp những công trình khoa học chọn lọc của họ đã ra đời.

Ngành chuyên môn của tôi “tối ưu hoá toàn cục” cũng không xa xôi gì với ngành của GS Hưng cho nên tôi rất ngưỡng mộ những cống hiến của ông cho tuổi trẻ Việt Nam về ngành “Tính toán cơ khí và xây dựng công trình”. Dưới sự điều phối của ông, hai chương trình nói trên đã cấp bằng thạc sỹ quốc tế cho hơn ba trăm học viên và bằng tiến sỹ cho nhiều học viên khác.

Theo chỗ hiểu biết của tôi, đây là các chương trình đẳng cấp quốc tế duy nhất có mặt tại Việt Nam về các ngành công nghệ tiên tiến này. Học viên lại được cấp bằng chính thức của một trường Đại học Châu Âu sau khi đã bảo vệ thành công luận văn. Sáng kiến mới mẻ này về việc xây dựng những trung tâm du học tại chỗ cho phép giảm thiểu kinh phí rất nhiều, nhất là giới hạn tối đa nguy cơ chảy máu chất xám, điều thường xảy ra cho các nuớc trên đường phát triển như Việt Nam.

Tôi cũng chia sẻ với GS Nguyễn Đăng Hưng về sự quan tâm, tận tụy của ông đối với sự nghiệp chấn hưng và cải tổ nền giáo dục nước nhà. Tôi đã đọc nhiều bài viết của ông trên các cơ quan ngôn luận đại chúng Việt Nam và điều tôi thích thú là chúng tôi có nhiều tương đồng về quan điểm, về hệ giá trị cần thiết cho công cuộc đổi mới hệ thống đại học tại Việt Nam.

Tôi cũng rất vui mừng là ông đã cùng chúng tôi và 23 nhà khoa học, giáo sư đại học, trí thức trong và ngoài nuớc đồng lòng soạn thảo và ký một bản kiến nghị có tên là : “Kiến nghị về Chấn hưng, Cải cách, Hiện đại hoá Giáo dục” gửi chính phủ Việt Nam. Sự kiện đáng ghi nhận này đã xảy ra gần hai năm nay, và vấn đề này vẫn còn là ưu tiên số một của chính phủ Việt Nam hiện nay.

Tôi rất tiếc được tin ông đã lấy hưu trí và hậu quả phải chờ đợi là những chương trình đào tạo chất lượng này phải ngừng lại. Thật ra, tìm một người khác thay thế ông làm được việc này là không dễ dàng chút nào: phải là nguời vừa có kinh nghiệm học thuật và quản lý, vừa có trình độ khoa học nghiêm túc tại các nước tiên tiến, vừa có tinh thần tận tụy vì mọi người như ông. Ông đã chứng tỏ khả năng này trong khoảng thời gian dài đã qua. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng trong buổi về hưu, ông sẽ có thì giờ tranh thủ về Việt Nam thường xuyên hơn, tham gia cống hiến có hiệu quả hơn nữa trong công cuộc hiện đại hoá hệ thống đại học nước nhà… (Hà Nội, ngày 12 tháng 9 năm 2006)”.

Trong những năm gần đây, GS Hoàng Tụy không ngừng tỏ bày quan điểm cương trực và thẳng thắn của mình về giáo dục và học thuật hiện nay tại Việt Nam.

Xin ghi lại đây những điều tôi tâm đắc nhất:

“Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tất yếu phải bắt đầu bằng việc hiện đại hoá giáo dục, mà sự lạc hậu của nền giáo dục của chúng ta chung qui là ở chỗ nó rất xa lạ với kinh nghiệm lịch sử của chúng ta và kinh nghiệm giáo dục trên thế giới, trong lúc chúng ta đang cần hội nhập để phát triển”. (Kiến nghị cuả Hội thảo về Chấn hưng, Cải cách, Hiện đại hoá Giáo dục).

“Điều quan trọng trước hết là phải có một tầm nhìn chiến lược về mục tiêu trước mắt và lâu dài, hướng đi, nhu cầu, khả năng trong xu thế phát triển, tư tưởng chỉ đạo, đường lối tổng quát, cũng có thể gọi là triết lý làm giáo dục, khoa học thời nay, trong thế giới này”. (Năm mới, chuyện cũ – Hoàng Tụy 15:57:53 02/02/2007, Tia sáng).

“Chúng ta quá liều khi coi giáo dục là hàng hóa!” (Theo Tuổi trẻ 2/15/2005).

“Muốn chữa bệnh có hiệu quả phải hiểu cơ chế phát sinh ra bệnh. Tham nhũng ở nước ta hiện nay như vết thương từ bên trong cơ thể, từ trong máu, nhưng chúng ta chỉ chăm chú chữa trị những lở loét bên ngoài, bôi hết thuốc này đến thuốc khác, cứ chỗ này vừa khỏi thì bung ra chỗ khác, dịu đi một chút rồi bùng phát trở lại, có khi còn dữ dội hơn trước và ngày càng khó chữa trị. Cần phải hiểu tham nhũng ở ta là căn bệnh từ cơ chế. Nhưng rất tiếc trong các biện pháp đưa ra trong dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng không thấy đề cập tới biện pháp nào về cơ chế”. (Tạp chí Lập pháp, 16/10/2005).

“Làm khoa học bất chấp chuẩn mực quốc tế: Tự cô lập!” (VietNamNet, 07/5/2006).

“Kinh tế tri thức thực chất là nền kinh tế dựa vào chất xám và tài năng. Cho nên công cuộc hội nhập muốn thành công phải coi trọng đặc biệt vấn đề thu hút nhân tài. Đã từ nhiều năm Nhà nước hô hào người Việt thành tài ở nước ngoài về nước làm việc. Chủ trương đó rất đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên sự thực thì vấp phải quá nhiều rào cản, mà rào cản lớn nhất là chủ trương chung thì thoáng nhưng đi vào cụ thể thì còn nhiều chính sách rất bí. Từ cấp lãnh đạo cao đến người dân chưa phải ai cũng đã thật sự thông suốt với chủ trương này”. (Năm mới, chuyện cũ 02/02/2007).

“Thật đau lòng nhìn thấy biết bao tài năng trẻ, biết bao tâm huyết, biết bao khát vọng, mà trong bao năm đành chịu cho khoa học của đất nước cứ ì ạch từng bước trong khi thiên hạ đi hài bảy dặm. Trong xã hội ta gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều “danh nhân thế giới”, “nhân vật trong năm của thế giới”, “bộ óc vĩ đại của thế kỷ”, “viện sĩ”, v.v. nên nhiều người cứ tưởng Việt Nam chắc phải có nhiều nhà khoa học tầm cỡ thế giới lắm”. (Vietsciences – 01/04/2007).

Tôi vẫn thường tự hỏi tại sao với những nhận định thông thái và sáng suốt như vậy, với bề dày cống hiến trên 50 năm cho sự nghiệp giáo dục và khoa học Việt Nam, với uy tín quốc tế sâu rộng như vậy, tại sao GS Tụy vẫn tiếp tục đứng ngoài lề trong công cuộc cải cách giáo dục và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam?

Là cha đẻ của lý thuyết tối ưu toàn cục, được bè bạn khoa học năm châu thừa nhận và vinh danh, GS Hoàng Tụy theo tôi là nhà khoa học sinh hoạt tại Việt Nam, nhà bác học Việt Nam thời hiện đại được thế giới ngưỡng mộ nhất!

Ta biết thế giới ngày nay đã dần dần từ bỏ lý thuyết phát triển xã hội qua luật “đấu tranh để sinh tồn”. Thuyết “thích nghi với môi trường để cùng nhau phát triển” đã trở thành bao trùm cho thế kỷ 21. Thích nghi với môi trường để phát triển cũng có quy luật của nó. Phải chăng đó là qui luật tối ưu toàn cục trong môi trường thiên nhiên mà càng ngày các nhà khoa học ngày càng nhận thấy? Tôi thầm nghĩ, tầm vóc khoa học của GS Hoàng Tụy sẽ được khẳng định cao hơn nữa trong tương lai…

Quê của Giáo sư Hoàng Tụy là làng Xuân Đài (nay thuộc xã Điện Quang), quê tôi là làng Bồ Mưng (nay thuộc xã Điện Thắng) huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cách nhau chỉ một cánh đồng. Vậy mà tôi phải mất hơn 65 năm mới nhận diện chính xác chỗ đứng đích thật của một người đồng hương, một nhà bác học tầm cỡ thế giới, một tấm lòng cao cả, qua bao dâu bể thăng trầm, đã phấn đấu không mệt mỏi cho nền học thuật nước nhà.

TP HCM ngày 16/10/2007

N.Đ.H.

(Bài viết dành cho Kỷ yếu ra mắt vào đầu tháng 12-2007 ngày sinh nhật của GS Hoàng Tụy)

Tác giả gửi BVN

Xin xem thêm:

Bauxite Việt Nam: Giáo sư Hoàng Tụy từ trần

Nguyên Ngọc: Những lời cuối cùng của thầy Hoàng Tụy

This entry was posted in Hoàng Tụy. Bookmark the permalink.