Khánh Anh dịch
Nhằm chế ngự công nhân nổi loạn, Việt Nam hiện đang xây dựng chế độ thương lượng tập thể. Nhưng việc trao quyền cho các công đoàn độc lập có thể gây phản tác dụng cho chính phủ độc tài – và cho phép người lao động chống lại tư bản đa quốc gia.
Công nhân nhà máy may ở Việt Nam.
Việc Quốc hội bù nhìn phê duyệt một công ước quốc tế phức tạp có vẻ không phải là điều gì đó có tiềm năng tạo ra những thay đổi lớn trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, vào thứ Sáu, ngày 14 tháng 6, Quốc hội đã phê chuẩn Công ước 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về thương lượng tập thể và quyền tổ chức. Đây là một tin quan trọng – khi phê chuẩn Công ước 98 ILO, Việt Nam đã tạp ra nhiều đối nghịch và căng thẳng.
Hai trong số các công ước – Công ước 87, quyền tự do lập hội và bảo vệ quyền tổ chức, và Công ước 98, quyền tổ chức và thương lượng tập thể – được coi là cơ bản cho khả năng cơ bản cho các công đoàn độc lập hoạt động và hoạt động độc lập mà không có sự can thiệp của nhà nước hoặc chủ lao động. Công ước 98 cho phép người lao động được bảo vệ chống phân biệt đối xử, và cho phép người lao động và chủ lao động điều hành tổ chức của họ mà không can thiệp lẫn nhau. Công ước 87 cho phép người lao động thành lập và tham gia các công đoàn do chính họ lựa chọn mà không cần sự cho phép trước.
Hiện tại, Việt Nam chỉ có một liên đoàn lao động do nhà nước lãnh đạo, Liên đoàn Lao động Việt Nam (LĐLĐVN), phụ thuộc vào cả Đảng Cộng sản cầm quyền cũng như của người sử dụng lao động. Công đoàn độc lập hiện đang bị cấm. Ở cấp quốc gia, LĐLĐVN trực thuộc đảng, trong khi ở cấp doanh nghiệp, Công đoàn do các nhà quản lý chi phối. Không có gì lạ khi một đại diện công đoàn lại là giám đốc nhân sự của công ty hay một người có chức vụ tương tự.
Công ước 98 đã được phê chuẩn gần đây sẽ giúp phá vỡ sự thống trị của chủ lao động ở cấp công ty, yêu cầu tổ chức của các công nhân và tổ chức của những người sử dụng không được can thiệp lẫn nhau. Công ước 87 – mà Việt Nam dự định phê chuẩn vào năm 2023 – sẽ hợp pháp hóa các tổ chức lao động độc lập, và do đó cho phép họ hoạt động mà không phải chịu sự chi phối của đảng Cộng sản. Một điều chưa từng có tiền lệ ở một nhà nước xã hội chủ nghĩa độc đảng nhằm tích cực thúc đẩy các cải cách để tăng đáng kể khả năng hoạt động độc lập của công đoàn.
Nhưng công nhân Việt Nam chưa bao giờ đòi cải cách như vậy. Thay vào đó, họ tham gia vào các cuộc đình công tự phát thay vì các cuộc đình công do công đoàn lãnh đạo. Mỗi năm có hàng trăm cuộc biểu tình, và họ thường thành công trong việc đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Hình thức tổ chức lao động này – “thương lượng tập thể bằng bạo loạn”- có hiệu quả và người lao động rất vui vẻ tiếp tục sử dụng. Ngoài lợi ích cơ bản ngay lập tức, hoạt động tự phát cũng có một số tác động rộng lớn hơn, như góp phàm làm cho Việt Nam trở thành một trong số ít các quốc gia có lương tăng nhanh hơn tăng trưởng năng suất và đảo ngược một thay đổi lớn trong luật an sinh xã hội năm 2015 .
Ngoài ra, trong hai thập kỷ qua, lực lượng công nhân tự phát đã buộc nhà nước phải thực hiện nhiều sáng kiến để giảm bớt đình công và xây dựng “mối quan hệ lao động hài hòa” để đảm bảo sự hoạt động suôn sẻ của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc này bao gồm thiết lập một cơ chế đàm phán lương tối thiểu hàng năm, thử nghiệm thương lượng tập thể trong hệ thống hiện có và nỗ lực cải cách LĐLĐVN. Các dự án như vậy phần lớn đã không đạt được mục tiêu giảm đáng kể các cuộc đình công. Do đó, nhà nước và người sử dụng lao động, trong một nỗ lực tuyệt vọng để ngăn chặn dòng đình công và nhận ra rằng công đoàn do nhà nước lãnh đạo không thể làm như vậy, họ đã bắt đầu thúc đẩy độc lập công đoàn, cho rằng các công đoàn đại diện thực sự sẽ cho phép đối thoại giữa người lao động và người sử dụng lao động để có thể giúp ngăn ngừa và ngăn chặn các cuộc đình công.
Đồng thời, việc Việt Nam gia nhập thị trường toàn cầu và mạng lưới sản xuất đã tham gia ký kết một số hiệp định thương mại quốc tế, nhiều hiệp định có bao gồm các quy định về quyền lao động. Do đó, hai áp lực cần giảm đình công và cần ký kết các hiệp ước hội nhập tư bản đã kết hợp để tạo ra các yếu tố của nhà nước và tư bản Việt Nam – bao gồm Bộ Lao động, một số bộ phận của LĐLĐVN và một số bộ phận của giai cấp tư sản công nghiệp – tiếp thu ý tưởng tự do lập hội.
Điều này trở nên đặc biệt rõ ràng trong các cuộc đàm phán Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó cải cách lao động là một yếu tố quan trọng. TPP ban đầu có một thỏa thuận phụ khá chi tiết giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, giải thích cách thức Tự do lập hội sẽ được thực thi (mặc dù điều này không phải không có sự chỉ trích). Tuy nhiên sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP, thỏa thuận phụ đã chết.
Thỏa thuận CPTPP, hiện có hiệu lực và bao gồm các bên ký kết TPP ban đầu trừ Hoa Kỳ, có các điều khoản yếu hơn về cải cách lao động. Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam cũng có một chương tương tự về quyền lao động. Mặc dù mơ hồ về các cam kết lao động, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang thực hiện cải cách nghiêm túc. Con đường này đã dẫn đến việc phê chuẩn Công ước 98 và sẽ dẫn đến việc phê chuẩn Công ước 87.
Trớ trêu thay, chính các thỏa thuận thương mại đã góp phần thuyết phục nhà nước Việt Nam cho phép công đoàn tự do nhiều hơn cũng đang áp dụng các cấu trúc mà ở phương Tây, đã hoàn toàn làm suy yếu chủ nghĩa công đoàn và thương lượng tập thể tại nơi làm việc. Khi những chiến lược này dường như đã thành công trong việc mang lại lợi ích vật chất thực sự cho người lao động trong một thời gian ở Châu Âu và Hoa Kỳ, cuối cùng họ đã bị xói mòn bởi những cải cách mới, vốn làm tăng đáng kể tính linh hoạt vốn và sự bấp bênh lao động. Do đó, các công đoàn và cơ cấu thương lượng tập thể, dựa trên các cuộc đàm phán bền vững giữa người sử dụng lao động và người lao động cũng như dựa trên việc làm lâu dài an toàn, ngày càng trở nên kém hiệu quả và rối loạn chức năng.
Điều này tạo ra một cuộc khủng hoảng ở công đoàn và các phong trào lao động vẫn chưa phục hồi. Mục đích chính của các hiệp định thương mại mà Việt Nam đang tham gia là cho phép tư bản quốc tế nhiều tự do để di chuyển khắp thế giới để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, các thỏa thuận được sử dụng để có dòng vốn mới và sự linh hoạt tương tự đã góp phần phá hủy các hệ thống quan hệ công nghiệp ổn định ở phương Tây.
Hơn nữa, trong khi các cuộc thảo luận về Công ước 87 và 98 đã được tiến hành trong vài năm qua, Việt Nam đã đồng thời ngày càng gia tăng đàn áp các nhà hoạt động và tổ chức xã hội dân sự, bao gồm các nhà hoạt động lao động. Ngay cả các nhà nghiên cứu điều tra các chủ đề thường không được coi là đặc biệt gây tranh cãi, chẳng hạn như sức khỏe của công nhân, đã phải gặp sự quấy rối từ phía chính quyền. Hoạt động tự do của các công đoàn mà không có sự can thiệp của người sử dụng lao động hoặc sự can thiệp của nhà nước là không phù hợp với một nhà nước độc đoán không có dấu hiệu từ bỏ quyền lực.
Thông qua việc phê chuẩn Công ước 98, Việt Nam đã đặt ra một số xu hướng mâu thuẫn đối với một quá trình va chạm với nhau. Đầu tiên, chính phủ đang tiến hành cải cách để tạo ra một hệ thống quan hệ công nghiệp được cho là nền tảng của việc làm ổn định, sức khỏe và an toàn nơi làm việc, và tiền lương cao hơn – đồng thời thúc đẩy dòng vốn mới, chính là thứ đã phá hủy các hệ thống quan hệ công nghiệp như vậy nơi họ đã phần nào thành công. Thứ hai, trong khi quốc hội cho phép các công đoàn độc lập hơn, chính quyền cũng đã kìm kẹp không gian xã hội dân sự. Thêm vào đó các cuộc biểu tình tự phát tiếp tục tăng lên đáng kể, và sẽ phải có gì đó thay đổi. Dù chưa ai biết được đó là gì.
Nguồn: Joe Buckley, Vietnam Gambles on Workers’ Rights
VNTB gửi BVN