Mới đây, Phó Thủ tướng, cựu Bộ trưởng GDĐT Nguyễn Thiện Nhân viết trên trang nhà của Chính phủ rằng chất lượng giáo dục phổ thông tăng trong thời gian ông làm bộ trưởng. Sau khi điểm qua sự tăng vọt của tỷ lệ tốt nghiệp (TLTN) trung học phổ (THPT) thông năm 2006 đến 2010, ông kết luận “Chất lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông tăng”.
Chúng tôi thấy hơi nghi ngờ kết luận này, vì khó có thể nói rằng tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông tăng, đặc biệt trong một thời gian ngắn, là thước đo của chất lượng. Chúng tôi quyết định phân tích lại số liệu và kết quả phân tích cho thấy phát biểu của ngài Phó TT có lẽ không phù hợp với dữ liệu thực tế. Theo cách hiểu của chúng tôi, TLTN THPT tăng nhanh trong thời gian gần đây phù hợp với giả thuyết bệnh thành tích càng ngày càng nghiêm trọng, hơn là giả thuyết chất lượng giáo dục đã tăng.
NVT-NĐN
Trong vài năm gần đây, hầu như bất cứ một kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông nào cũng để lại nhiều dấu hỏi trong công chúng. Kỳ thi năm nay, 2010, cũng không phải ngoại lệ; với nhiều ý kiến cho rằng tỷ lệ tốt nghiệp năm nay quá cao, và có lẽ bệnh thành tích trong giáo dục đang có nguy cơ quay lại hay đang tái phát.
Tuy nhiên, chưa ai tìm ra cách định lượng bệnh thành tích và cũng chưa ai chỉ ra những địa phương nào có bệnh thành tích. Bài viết này sử dụng các số liệu về tỷ lệ tốt nghiệp hệ THPT trong các năm từ 2006 đến 2010 (số liệu trích từ các nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ GD và ĐT, Báo VietNamNet, và Báo Dân trí 18/06/2010) để tìm hiểu xem liệu có tồn tại bệnh thành tích và những địa phương có dấu hiệu của bệnh thành tích.
I. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2010 có gì đáng chú ý?
Theo phân tích của chúng tôi, có 3 điểm đáng chú ý trong tỷ lệ tốt nghiệp năm 2010: Tỷ lệ tăng nhanh từ năm 2007, độ dao động trong mỗi tỉnh cao hơn mức độ khác biệt giữa các tỉnh; và mối tương quan cao về kết quả của năm 2010 với tỷ lệ tốt nghiệp năm 2006 (năm được cho là đỉnh cao về bệnh thành tích).
Tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm nay xấp xỉ tỷ lệ tốt nghiệp năm 2006. Theo số liệu mới nhất mà chúng tôi thu thập được (có thể tham khảo ở đây), thì tỷ lệ tốt nghiệp trung bình trên toàn quốc năm 2010 là 90,2%. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ năm 2006 ( ~92%), nhưng cao hơn hẳn so với các năm 2009 đến gần 10%, năm 2008 khoảng 17%, và năm 2007 đến 27% (Biểu đồ số 1 Bảng 1). Nếu lấy thời điểm 2007 làm điểm khởi đầu, thì số liệu năm 2010 có nghĩa là tỷ lệ tốt nghiệp tăng trung bình khoảng 9% mỗi năm trong thời gian 4 năm qua.
Tuy nhiên, tỷ lệ tốt nghiệp năm 2010, cũng như các năm trước dao động rất lớn giữa các tỉnh thành và vùng (Bảng 1). Năm 2010, tỷ lệ tốt nghiệp THPT được ghi nhận cao nhất ở các tỉnh thành đồng bằng sông Hồng (97,8%) và vùng Bắc Trung Bộ (97,7%). Các tỉnh thành thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, có tỷ lệ thấp nhất (82,3%).
Bảng 1: Tỷ lệ (%) tốt nghiệp THPT tính từng vùng trong thời gian 2006-2010 | |||||
Vùng | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 |
Đông Bắc | 93,8 | 44,0 | 65,1 | 79,0 | 92,7 |
Tây Bắc | 88,6 | 37,9 | 62,3 | 69,5 | 87,5 |
ĐBSH | 99,0 | 78,5 | 85,8 | 91,1 | 97,8 |
Bắc Trung bộ | 95,8 | 60,0 | 71,8 | 84,4 | 97,7 |
Nam Trung bộ | 92,9 | 72,3 | 75,4 | 81,4 | 93,5 |
Tây Nguyên | 87,7 | 59,2 | 67,5 | 80,7 | 85,9 |
Đông Nam bộ | 91,4 | 72,3 | 74,8 | 80,2 | 86,2 |
ĐBSCL | 85,8 | 69,4 | 75,2 | 74,8 | 82,3 |
Toàn quốc | 91,97 | 63,4 | 73,3 | 80,4 | 90,2 |
Độ lệch chuẩn | 6,28 | 17,75 | 12,06 | 10,92 | 8,69 |
Một đặc điểm đáng chú ý khác là mức độ dao động về tỷ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh thành trong thời gian 2006 – 2010 rất cao. Biểu đồ 2 dưới đây trình bày TLTN trung bình cho 63 tỉnh thành. Có một số tỉnh (chủ yếu là vùng Đông Bắc và Tây Bắc) có tỷ lệ tốt nghiệp giảm rất nhanh giữa năm 2006 và 2007 (từ 90% năm 2006 xuống dưới 20% vào năm 2007), nhưng sau đó thì cũng tăng rất nhanh.
Trong khi đó, độ khác biệt giữa các tỉnh cho từng năm thì có xu hướng giảm theo thời gian. Điều này nói lên một nghịch lí là mức độ biến chuyển tỷ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh cao hơn mức độ khác biệt giữa các tỉnh!
II. Căn bệnh tái phát
Một cách có thể dùng để thẩm định xu hướng “bệnh thành tích” có tái phát hay không là xem xét đến mối tương quan về TLTN giữa các năm, mà thước đo là hệ số tương quan (coefficient of correlation). Hệ số tương quan là một chỉ số đo sự tương đồng giữa hai biến số, hay trong trường hợp này là tỷ lệ tốt nghiệp giữa hai năm.
Hệ số này dao động từ 0 (tức hoàn toàn không có liên quan) đến 1 (tức hoàn toàn tương quan). Khi hệ số tương quan giữa năm t và t+1 gần bằng 1, điều đó có nghĩa là tỷ lệ tốt nghiệp của năm t+1 có thể tiên đoán từ tỷ lệ tốt nghiệp của năm t. Áp dụng khái niệm đó, chúng tôi đã phân tích tỷ lệ tốt nghiệp của tất cả các năm 2006 – 2010 (Biểu đồ 3)
Phân tích cho thấy một xu hướng rất thú vị và cũng có ý nghĩa. Mối tương quan giữa tỷ lệ tốt nghiệp của năm 2010 với các năm 2009, 2008, 2007 giảm dần. Tỷ lệ tốt nghiệp giữa năm 2010 và 2009 là 0,59, giữa năm 2010 và 2008 là 0,26; và giữa năm 2010 và 2007 chỉ còn 0,11, thậm chí không có ý nghĩa thống kê.
Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là tỷ lệ tốt nghiệp năm 2010 và năm 2006 là cao nhất (r = 0,70). Kết quả này cho biết, những tỉnh có tỷ lệ tốt nghiệp cao trong năm 2006 cũng chính là những tỉnh có tỷ lệ tốt nghiệp cao trong năm 2010. Thật vậy, tỷ lệ năm 2006 có thể tiên đoán khoảng 50% độ dao động về tỷ lệ tốt nghiệp năm 2010!
Biểu đồ 3: Hệ số tương quan về tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2006 – 2010
Chú thích: Các số trong các ô thuộc nửa trên-phải là hệ số tương quan từng đôi năm. Các biểu đồ nằm trong các ô thuộc nửa dưới-trái là các đồ thị biểu diễn mối tương quan tương ứng. Mỗi tương quan từng đôi năm được bố trí theo đỉnh của các hình vuông với đường chéo là đường nối giữa hai năm tương ứng. Do vậy, những ô trong cột thứ 5 (tính từ trái sang phải) thể hiện mối tương quan giữa tỉ lệ tốt nghiệp (TLTN) năm 2010 với các năm 2006 đến 2009. Chẳng hạn như hệ số tương quan giữa TLTN năm 2010 và 2009 là 0.59, giữa 2010 và 2008 là 0.26 (tức rất thấp), giữa 2010 và 2007 là 0.11 (không có ý nghĩa thống kê), nhưng giữa năm 2010 và 2006 là 0.70 (tức cao nhất so với các năm khác). Cách đọc tương tự có thể áp dụng cho năm 2009 ở cột số 4. |
III. Lượng hóa “Bệnh thành tích”
Định nghĩa”Bệnh thành tích”
Để định lượng bệnh thành tích, chúng ta cần một định nghĩa khả dĩ. Thật ra, cho đến nay, chúng ta chỉ hiểu ngầm bệnh thành tích, chứ chưa có ai định nghĩa nó như thế nào. Có tác giả như Huỳnh Bảo Sơn chẳng hạn, xem bệnh thành tích là một hậu quả của chủ nghĩa hình thức. Theo tác giả này “Bệnh thành tích là hậu quả của chủ nghĩa hình thức và chính nó là mẹ đẻ của bệnh sao chép, học thuộc lòng và hiện tượng đào tạo hình ống của hệ thống đại học ở nước ta“. Nhưng đó vẫn chưa phải là một định nghĩa của bệnh, mà chỉ là căn nguyên của bệnh.
Theo chúng tôi, bệnh hình thức trong giáo dục có thể hiểu như là tình trạng thành tựu giáo dục được nâng cao hơn khả năng thực tế một cách có hệ thống (nhằm đáp ứng yêu cầu hay áp lực chính trị). Chẳng hạn như, một trường trung học vùng sâu vùng xa, dù thiếu khả năng và phương tiện để nâng cao trình độ học sinh bằng các trường ở thành phố, nhưng vì địa phương có thể (tỉnh) cần con số đẹp để báo cáo lên trung ương, nên phải gây áp lực cho giáo viên và hiệu trưởng nâng cao điểm cho học sinh sao cho tương đương với điểm của học sinh thành phố.
Chiếu theo định nghĩa trên, có ba vế: thứ nhất là thành tựu giáo dục; thứ hai là khả năng thực tế; và thứ ba là dùng cơ chế để đạt được thành tích ảo. Nếu dựa theo đó, chúng tôi có thể định lượng bệnh thành tích bằng các chỉ số cụ thể. Để định lượng bệnh, chúng ta cần một vài chỉ số thống kê để đo lường qui mô và xu hướng phát sinh của bệnh thành tích.
Trong bài phân tích này, chúng tôi sử dụng TLTN như là một chỉ số đo lường một “thành tựu” giáo dục, bởi vì con số này phản ảnh tình hình chung liên quan đến đầu ra của một địa phương. Nói đến xu hướng là nói đến thời gian, cho nên chúng ta cần phải xem xét đến tỷ lệ tốt nghiệp THPT trong thời gian qua.
Nhận diện các địa phương “siêu thành tích”
Vì số liệu không đầy đủ, nên chúng tôi phải tạm sử dụng số liệu đã được qua “chế biến”, hiểu theo nghĩa các TLTN của mỗi tỉnh đã được tính toán từ con số thí sinh dự thi và số thí sinh đỗ tốt nghiệp. Tuy nhiên, vì số học sinh dự thi thường cao (trên 1.000) nên những con số TLTN gần như không chịu sự chi phối của các yếu tố mẫu và nhiễu.
Về mặt phương pháp, hai phương pháp để đo lường bệnh thành tích là: Hệ số biến thiên (coefficient of variatio, viết tắt là CV) và so sánh tỷ lệ tốt nghiệp trên thực tế với tỷ lệ dự báo thu được bằng phân tích hồi qui đa tầng (hierarchical regression model).
Chỉ số thứ nhất: Hệ số biến thiên
Nếu địa phương có triệu chứng bệnh thành tích, thì chúng ta có thể đoán rằng độ dao động về tỷ lệ tốt nghiệp của địa phương đó ắt phải cao một cách bất thường. Biểu đồ 4 dưới đây cho thấy một sự khác biệt rất rõ nét về độ dao động của tỷ lệ tốt nghiệp giữa 3 miền đất nước. Một cách biểu kiến, các tỉnh miền Bắc có tỷ lệ dao động (giữa các năm) lớn nhất, kế đến là các tỉnh miền Trung. Riêng các tỉnh, thành miền Nam có tỷ lệ tốt nghiệp khác biệt thấp nhất.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ tốt nghiệp THPT trong 5 năm 2006 – 2010 thuộc 3 miền Bắc, Trung và Nam. Chú ý trục tung có cùng đơn vị để dễ so sánh độ dao động giữa 3 miền |
Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải có một chỉ số thống kê định lượng, cụ thể hơn để đánh giá độ dao động, độ khác biệt giữa các năm trong một địa phương. Chỉ số đó là độ lệch chuẩn (standard deviation, SD). Theo định nghĩa, CV được tính bằng cách lấy SD chia cho số trung bình (average). Bởi vì SD và số trung bình có cùng một đơn vị đo lường (trong trường hợp tỷ lệ tốt nghiệp, thì đơn vị đo lường là phần trăm). Cho nên với CV, là một tỷ số, có thể sử dụng để so sánh giữa các địa phương một cách dễ dàng. Thí dụ:
Tỷ lệ tốt nghiệp THPT của TP Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm 2006 – 2010 lần lượt là 96,1; 95,1; 93,3; 94,6; và 94,6%. Như vậy, tính trung bình, tỷ lệ tốt nghiệp của TP HCM (%) là 94,7; và SD = 1,01. Do đó, chỉ số biến thiên CV = 0,0107 hay 1,07%, tức là rất thấp.
Ở Cao Bằng, tỷ lệ tốt nghiệp THPT trong cùng thời gian trên là 86,8% (2006), xuống còn 27,8% (2007), và nhanh chóng tăng lên 40,6% (2008), 64,2% (2009), đạt đỉnh 89,65% (2010). Do đó, tỷ lệ trung bình của 5 năm qua là 61,8%, nhưng với độ dao động rất lớn vì SD = 27,4%. Nói cách khác độ lệch chuẩn cao 44% (CV = 44%) so với chỉ số trung bình.
Hai ví dụ trên cho chúng ta thấy rõ ràng rằng chỉ số CV có thể là một thước đo có ích để nhận ra các địa phương có tín hiệu bệnh thành tích. Nhưng bản thân chỉ số CV cũng dao động giữa các tỉnh thành, do đó, chúng tôi cần một ngưỡng (cut-off level) để đánh giá bệnh thành tích.
Gọi số trung bình CV của 63 tỉnh thành là aCV, và độ lệch chuẩn của độ biến thiên trong 63 tỉnh thành là sdCV, chúng ta có thể phát biểu rằng những tỉnh thành nào có CV cao hơn aCV + sdCV là địa phương có thể xem là “bất thường”.
Qua phân tích thực tế, chúng tôi thấy chỉ số biến thiên trung bình cho toàn bộ 63 tỉnh thành là aCV = 17%, với độ lệch chuẩn sdCV = 11%. Do đó, chúng tôi chọn ngưỡng CV trên 30% để nhận dạng các địa phương có thể “có bệnh thành tích”. Kết quả trình bày trong Bảng 2 cho thấy các tỉnh sau đây có CV trên 30%.
Bảng 2: Các tỉnh thành có hệ số biến thiên trên 30% (tức có dấu hiệu “bệnh thành tích”) | ||||||
Tỉnh | Tỷ lệ (%) tốt nghiệp THPT năm | Hệ số biến thiên-CV (%) | ||||
2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | ||
Quảng Trị | 96,18 | 82,77 | 61,70 | 46,40 | 98,90 | 29,3 |
Nghệ An | 98,00 | 87,35 | 61,50 | 45,20 | 96,80 | 30,1 |
Hà Giang | 95,56 | 75,90 | 54,60 | 34,80 | 87,60 | 35,6 |
Hòa Bình | 95,37 | 80,84 | 57,40 | 33,00 | 96,60 | 37,5 |
Yên Bái | 98,51 | 72,74 | 52,40 | 27,00 | 96,80 | 43,7 |
Cao Bằng | 89,65 | 64,24 | 40,60 | 27,80 | 86,80 | 44,4 |
Bắc Kạn | 70,00 | 60,95 | 43,20 | 20,30 | 91,20 | 47,1 |
Tuyên Quang | 96,43 | 81,48 | 59,90 | 14,20 | 95,60 | 49,3 |
Sơn La | 91,43 | 39,07 | 54,60 | 24,30 | 88,90 | 50,0 |
Chỉ số thứ hai: So sánh ước tính tỷ lệ tốt nghiệp thực tế và tỷ lệ dự báo
Xác định “bệnh thành tích” bằng hệ số biến thiên (CV) có thể chỉ mới phản ánh được cho từng tỉnh đơn lẻ, mà chưa xét đến bản chất biến đổi của TLTN của tỉnh đó cũng như tương quan này với các tỉnh và giữa vùng miền.
Biểu đồ tỷ lệ tốt nghiệp trong 5 năm cho thấy từ năm 2006 – 2010, xu hướng chung là tỷ lệ tốt nghiệp gần như tăng theo một hàm số của phương trình bậc 2. Qua so sánh thì mô hình hồi qui đa tầng (multilevel regression) phản ánh xu hướng tỷ lệ tốt nghiệp chung và cho từng tỉnh tốt hơn so với mô hình đường thẳng (kết quả không trình bày ở đây). Nên mô hình này được áp dụng để đánh giá bệnh thành tích.
Qua khảo sát các mô hình khả dĩ, mô hình ước tính tỷ lệ tốt nghiệp cho mỗi tỉnh tối ưu nhất là một hàm số mà thời gian tuân theo mô hình đa thức bậc 2, và phụ thuộc vào yếu tố vùng: TLTN = a + b*năm + c*năm^2 + d*vùng + e (1); trong đó TLTN là tỷ lệ tốt nghiệp, a là thông số ước lượng tỷ lệ tốt nghiệp chung cho năm 2006, b và c là thông số phản ảnh tốc độ tăng trưởng của TLTN, d là thông số phản ánh mức độ TLTN thay đổi theo vùng địa dư, và e là yếu tố ngẫu nhiên.
Từ đó, chúng tôi ước tính và nhận dạng địa phương có tín hiệu bệnh thành tích qua 2 bước như sau:
(a) Dùng mô hình (1) để ước tính các thông số cần thiết cho 4 năm 2006 đến 2009, và dùng thông số đó để ước tính tỷ lệ tốt nghiệp cho năm 2010.
(b) Lấy tỷ lệ tốt nghiệp thực tế trong năm 2010 trừ cho tỷ lệ tốt nghiệp dự báo dựa vào mô hình trong bước (a), và gọi kết quả là D; D chính là một thước đo về bệnh thành tích.
Nếu địa phương nào có D là số dương, thì điều này có nghĩa là địa phương đó có tỷ lệ tốt nghiệp tăng cao hơn so với xu hướng trong 4 năm qua. Tuy nhiên, bởi vì mô hình hồi qui vẫn còn có sai số, cho nên vấn đề là cần phải một ngưỡng của D để nhận dạng địa phương “có vấn đề”.
Bởi vì tỷ lệ tăng trung bình là 8,8% mỗi năm với sai số chuẩn là 0,8%, cho nên chúng tôi chọn ngưỡng D, được tính bằng một trị số trung bình (8,8) + 2*sai số chuẩn (khoảng 10%) để nhận dạng địa phương có tỷ lệ tăng trưởng cao một cách “bất thường”.
Một số địa phương có tín hiệu “bệnh” rõ rệt
Dựa vào cách tính và ngưỡng trên, chúng tôi nhận ra 17 địa phương sau đây có sai lệch đáng chú ý, tức là một tín hiệu của “bệnh thành tích” (Biểu đồ 5): Bắc Cạn, Thừa Thiên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Bình, Kon Tum, Thanh Hóa, Lai Châu, Quảng Trị, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Giang, Hòa Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, và Sơn La.
Trong số này, có đến 12 tỉnh thuộc vùng Đông Bắc và Tây Bắc! Những tỉnh thành này cũng nằm trong kết quả khi phân tích bằng hệ số biến thiên ở phần trên. Như vậy, có sự nhất quán giữa hai kết quả phân tích, và điều này cho thấy rằng các tỉnh thành vùng Đông Bắc và Tây Bắc quả thật có tín hiệu bệnh thành tích rất đáng chú ý.
Biểu đồ 5: Dấu hiệu “bệnh thành tích” của các địa phương qua so sánh tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2010.
Trục hoành là mức độ khác biệt giữa tỷ lệ tốt nghiệp thực tế của năm 2010 và tỷ lệ dự báo dựa vào mô hình hồi qui đa tầng cho năm 2010. Mức độ khác biệt càng lớn (các tỉnh màu đỏ, vượt qua ngưỡng 10%) có nghĩa là tín hiệu cho thấy khả năng “bệnh thành tích” càng cao. |
IV. Vài nhận xét
Kết quả phân tích chúng tôi trình bày trên đây cho thấy tỷ lệ tốt nghiệp THPT dao động rất lớn giữa các tỉnh thành trong cùng một vùng, và giữa các năm trong cùng một địa phương. Mức độ khác biệt giữa tỉnh có tỷ lệ tốt nghiệp cao nhất (Nam Định, 99,8%) và thấp nhất (Ninh Thuận, 69,1%) là 30,7%, một mức độ rất lớn so với các năm trước.
Nhưng điểm quan trọng hơn là ngay trong cùng một tỉnh, mức độ biến chuyển về tỷ lệ tốt nghiệp còn cao hơn cả mức độ khác biệt giữa các tỉnh thành. Qua phân tích thống kê, chúng tôi nhận thấy phương sai của tỷ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh, thành là 30,6, nhưng phương sai trong mỗi tỉnh thành là 221,2, cao hơn 7 lần so với phương sai giữa các tỉnh.
Đây là một điểm bất bình thường, bởi vì chúng ta kỳ vọng rằng mức độ khác biệt về tỷ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh, thành phải cao hơn so với độ dao động trong mỗi tỉnh, thành do điều kiện học hành khác nhau rất lớn giữa các địa phương.
Tại sao mức độ biến chuyển trong mỗi địa phương cao hơn so với mức độ khác biệt giữa các điạ phương? Chúng tôi nghĩ đến 4 giải thích khả dĩ như sau: (a) Trình độ học sinh cao hơn trong thời gian qua; (b) Trình độ giáo viên đã được cải thiện; (c) Đề thi trở nên dễ hơn; (d) Tác động từ những “yếu tố ngoại tại”.
Theo nhận xét của chúng tôi, trình độ học sinh có thể cải thiện trong thời gian 5 năm qua, nhưng chưa có bằng chứng trực tiếp nào để công nhận như thế, và cũng rất khó có một sự biến chuyển về trình độ trong một thời gian ngắn. Nói một cách khác, yếu tố học sinh gần như là yếu tố biến đổi rất ít trong cùng một thế hệ. Tương tự, vì sự bổ nhiệm nhân sự trong các trường học, nên trình độ giáo viên cũng không thể nâng cao nhanh trong một vài năm được. Hơn nữa, lực lượng giáo viên trong cùng một tỉnh cũng gần như rất ít thay đổi với một khoảng thời gian ngắn.
Trong khi đó, có nhiều bằng chứng cho thấy đề thi năm nay dễ hơn năm ngoái và các năm trước. Như vậy, thực chất, sự biến chuyển lớn về tỷ lệ tốt nghiệp trong 5 năm qua, và nhất là năm 2010, không thể nào do trình độ học sinh và giáo viên được cải thiện nhanh, mà rất có thể là do yếu tố đề thi và yếu tố ngoại tại mà chúng ta khó có thể định lượng một cách trực tiếp và chính xác.
Ngoài ra, các kết quả trình bày trong bài này còn cho thấy bệnh thành tích giáo dục có xu hướng tái phát nhanh. Tỷ lệ tốt nghiệp năm 2010 (90%) tương đương với tỷ lệ tốt nghiệp năm 2006 (92%). Ngay sau khi nhậm chức, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào “Hai không”, và tỷ lệ tốt nghiệp năm 2007 đột nhiên giảm xuống chỉ còn 63% (tức giảm 29% so với năm 2006). Nhưng ngay sau thời điểm đó, tỷ lệ tốt nghiệp liên tục tăng một cách nhanh chóng như đường thẳng, gần 9% mỗi năm!
Quan trọng hơn, như đã trình bày ở trên, các tỉnh thành có tỷ lệ tốt nghiệp cao hay rất cao năm 2006 cũng chính là những tỉnh thành có tỷ lệ tốt nghiệp cao năm 2010. Độ tương quan giữa tỷ lệ năm 2010 và năm 2006 lên mức cao nhất so với những năm khác. Đây chính là một tín hiệu rõ ràng nhất cho thấy bệnh thành tích đang tái phát, và lần này, tốc độ tái phát rất nhanh.
Vậy, làm sao chúng ta có thể tin tưởng rằng có trường chỉ mấy năm trước đây có tỷ lệ tốt nghiệp 0%, mà nay thì tăng lên 90%? Nếu đó không phải là triệu chứng của bệnh thành tích, thì rất khó giải thích bằng một lý giải khác logic hơn!
Do đó, trái lại với cách diễn giải của Phó TT, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân rằng “Chất lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông tăng“, chúng tôi nghĩ rằng những biến chuyển về con số tỷ lệ tốt nghiệp không phản ảnh chất lượng giáo dục tăng, mà chỉ phản ảnh bệnh thành tích đang tăng.
Một trong những “phát hiện” thú vị của phân tích này là các tỉnh phía Bắc có tín hiệu bệnh thành tích cao hơn các tỉnh phía Nam. Dù sử dụng bất cứ thước đo thống kê nào, các địa phương có tín hiệu về bệnh thành tích thường là các tỉnh phía Bắc, nhất là Đông Bắc và Tây Bắc. Trong cả hai phương pháp định lượng, Sơn La là tỉnh có độ dao động về tỷ lệ tốt nghiệp bất thường nhất.
Năm 2006, tỷ lệ tốt nghiệp THPT ở Sơn La là 91%, nhưng giảm xuống chỉ còn 39% trong năm 2007, tăng lên 55% vào năm 2008, rồi lại giảm xuống còn 24% trong năm 2009, và nay thì tăng lên 89%. Thật khó có thể tưởng tượng ra một yếu tố nào khác gây ra một sự biến chuyển bất thường như thế, nếu không do bệnh thành tích!
Ngược lại với những gì Phó TT Nguyễn Thiện Nhân và Thứ trưởng Trần Quang Quý nhận xét về tình hình giáo dục theo chiều hướng tích cực, các kết quả phân tích này cho thấy tình hình giáo dục đang tiếp tục biến chuyển theo chiều hướng tiêu cực. Phong trào “Hai không” mà cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân phát động trong thời gian đầu nhậm chức xem ra chỉ có kết quả ngay sau đó, nhưng nay thì căn bệnh thành tích đã tái phát, và mức độ tái phát đã tương đương với thời điểm ông mới nhậm chức.
Có lẽ bài học ở đây là chúng ta không cần những phong trào với chữ “KHÔNG” mà cần những thay đổi về tư duy một cách triệt để, và một trong những tư duy cần xóa bỏ ngay là tư duy bệnh thành tích, bất kể tư duy này xuất phát từ áp lực chính trị hay mặc cảm địa phương.
————–
Ghi chú:
Phương pháp tính toán của chúng tôi dựa vào mô hình đa tầng (hierarchical model). Theo mô hình này, chúng tôi giả định rằng tỷ lệ tốt nghiệp của mỗi tỉnh thành i (i = 1, 2, 3…63 tỉnh thành) trong năm j (j = 2007 đến 2010) tuân theo hàm số đa thức bậc 2 với ảnh hưởng của vùng. Nói cách khác, hàm số này có 4 thông số a, b, c và d như sau: TLTN(ij) = a(i) + b(j)*T(ij) c(j)*T(ij)^2 + E(ij). Chúng tôi giả định thêm rằng, thông số a(i) là tổng số của một thông số quần thể a, ảnh hưởng của vùng, và sai số U(i) cho tỉnh thành i. Tương tự, tỷ lệ tăng trưởng b(i) cũng bằng một thông số chung b cộng với một sai số liên quan đến tỉnh thành i. Nói cách khác, a(i) = a + k(vùng) + U(i) và b(i) = b + l(vùng) + V(i). Trong đó U(i) phân phối theo luật phân phối chuẩn với trung bình 0 và phương sai varV, tức U(i) ~ N(0, varV; tương tự, V(i) ~ N(0, varV), và E(ij) ~ (0, varE). Vấn đề đặt ra là phải ước tính các thông số trên. Chúng tôi dùng software R để ước tính các thông số đó, và kết quả được trình bày trong bảng số liệu dưới đây:
Thông số (parameter) | Ý nghĩa của thông số | Ước số (estimate) | Sai số chuẩn (standard error) |
A | Tỷ lệ tốt nghiệp trung bình năm 2007 | 63,68 | 2,17 |
B | Tốc độ tăng TLTN mỗi năm | 8,76 | 0,80 |
Phương sai | |||
VarU | Độ khác biệt về tỷ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh | 272,69 | 52,89 |
Cov U(i) và V(i) | Tương quan giữa tốc độ tăng và tỷ lệ tốt nghiệp năm 2007 | -86,42 | 18,45 |
VarV | Độ khác biệt giữa các tỉnh về tốc độ tăng tỷ lệ tốt nghiệp | 34,28 | 7,29 |
VarE | Độ khác biệt trong mỗi tỉnh thành | 30,59 | 3,85 |
Bản của tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Bài đã đăng trên Tuần Việt Nam