Thư giãn Chủ nhật – Huy Cận và câu thơ ứng nghiệm vào đời

TS Luật Cù Huy Hà Vũ

Huy Cận

Nhà thơ Huy Cận (giữa) và con trai – TS. Cù Huy Hà Vũ, con dâu – Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà. Bản quyền hình ảnh: OTHER

Cách đây gần tám thập kỷ, ngày 2/2/1940, tại trụ sở của Tự Lực Văn Đoàn, 80 Quán Thánh, Hà Nội, đã diễn ra một bữa tiệc chia tay. Người ra đi là Xuân Diệu(1), thành viên gia nhập cuối cùng và là người trẻ nhất của Văn Đoàn. Lý do là ông vừa được bổ nhiệm làm Tham tá Nhà Đoan (Douane – tiếng Pháp, nghĩa là Sở Quan thuế) ở Mỹ Tho, sau khi tốt nghiệp Trường Luật thuộc Đại học Đông Dương.

Người ở lại gồm tất cả thành viên còn lại cùng Huy Cận(2), người bạn tri âm, tri kỷ của “chàng Xuân” và cũng là “chuẩn thành viên” của Văn Đoàn. Tiệc tất có rượu và những người tham dự tất trở thành “tiên ông”, dù nhiều dù ít. Thế rồi “rượu vào lời ra”. Có điều các “tiên ông” ở đây đều là các văn sĩ, thi sĩ nổi tiếng bậc nhất nên không có gì lạ là “lời ra” này là một bài thơ.

BÁT TIÊN QUÁ CHÉN

“Bỗng dưng thi sĩ hóa tây Đoan

Nửa mặt nhà văn, nửa mặt quan

Chén rượu tiễn đưa thơ khó nghĩ

Nỗi niềm cách biệt ý khôn toan

Hôm nay nhớ bữa chia bùi ngọt

Lát nữa còn vui cảnh tóp chan

Ví thử anh em đều xuất cả

Còn tuôn ra lắm mạch thơ gàn…”

Hoàng Đạo mở đầu, tiếp đó là Nhất Linh, Thạch Lam, Huy Cận, Thế Lữ, Tú Mỡ, Khái Hưng và Xuân Diệu. Trong bài thơ này, câu hay nhất chắc chắn là “nửa mặt nhà thơ nửa mặt quan” của Nhất Linh, vị thủ lĩnh của Văn Đoàn. Thế nhưng trên thực tế câu thơ này không ứng với Xuân Diệu là mấy, vì chỉ sau hai năm, cuối năm 1942, Xuân Diệu đã từ cái chức “quan thuế” ấy và trở về Hà Nội sống cùng Huy Cận, khi đó đã đậu kỹ sư canh nông và bắt đầu đi làm ở Sở Nghiên cứu Tầm tang để có điều kiện tiếp tục làm thơ và làm Nhà xuất bản Huy – Xuân. Cả quãng đời sau này làm việc cho chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có 15 năm làm Đại biểu Quốc Hội, Xuân Diệu cơ bản hoạt động với tư cách nhà văn. Ngược lại, “Nửa mặt nhà thơ nửa mặt quan” lại rất nghiệm với bạn ông, Huy Cận.

Huy Cận lần đầu tiên đến với bạn đọc khi bài lục bát Chiều Xưa của ông được đăng trên số Tết 1938 báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn. Hai năm sau, 1940, thi sĩ họ Cù đã có tập thơ của riêng mình, Lửa Thiêng, do Nhà xuất bản Đời Nay cũng của Tự Lực Văn Đoàn ấn hành. Hai năm sau nữa, trong tiểu luận “Một thời đại trong thi ca” mở đầu Thi nhân Việt Nam, cuốn sách nghiên cứu, phê bình xuất sắc nhất về phong trào Thơ Mới, Hoài Thanh viết: “Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu- Huy Cận có vô số thi sĩ bàn nhì bàn ba…”.

Nghĩa là chỉ bốn năm sau khi xuất hiện trên văn đàn, chứ không phải đợi “cái quan định luận”, Huy Cận đã đĩnh đạc ở “Bàn Nhất” của Thơ Mới – một cuộc Đại Cách mạng, thậm chí là một “Big Bang” – Vụ Nổ Lớn, tạo ra một vũ trụ hoàn toàn mới cho Thi ca Việt Nam.

‘Chính khách thành công’

Huy Cận, Xuân Diệu

Nhà thơ Huy Cận (trái) và nhà thơ Xuân Diệu là những người bạn ‘tri âm, tri kỷ’ trong suốt cả cuộc đời. Bản quyền hình ảnh: OTHER

Không chỉ thành đạt trong địa hạt văn chương, Huy Cận còn thành công với tư cách chính khách.

Ngày 2/9/1945, ở tuổi 26 với tư cách Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Huy Cận đã cùng Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh và các bộ trưởng khác ký Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của Pháp rồi của Nhật. Ba ngày trước đó, ngày 30/8/1945, ông cùng Trần Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng thay mặt Chính phủ lâm thời tiếp nhận sự thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại trên lầu Ngọ Môn của Hoàng thành Huế, chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ ở Việt Nam. Như vậy, Huy Cận là “Khai quốc công thần” của nước Việt Nam Độc lập và cũng là của chính thể Cộng hòa.

Kể từ “Cái buổi ban đầu dân quốc ấy” cho đến 1987, Huy Cận giữ nhiều vị trí khác nhau trong Chính phủ: Bộ trưởng Bộ Canh nông kiêm Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Bộ Canh nông, Thứ trưởng Bộ Kinh tế, Tổng Thư ký Hội đồng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng Đặc trách công tác Văn hóa – Thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Tóm lại, Huy Cận là người giữ hai kỷ lục ở cấp Chính phủ: bộ trưởng trẻ nhất mọi thời đại và thâm niên nhất với 42 năm phục vụ liên tục.

Làm thơ là “nghề tự do”, tồn tại hay không tồn tại hoàn toàn do bản thân. Thơ hay thì báo đăng, nhà xuất bản in, rồi nhạc sĩ phổ nhạc; vinh dự hơn nữa, thì được lưu lại trong trí nhớ của người đời. Xuân Diệu đã nói: “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết”. Ngược lại, để làm “quan” thì phải có tổ chức, phải có êkíp, điều này thì ai cũng rõ. Vấn đề là tại sao “một người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh” (chữ của Xuân Diệu về Huy Cận trong Lời tựa viết cho thi phẩm Lửa Thiêng xuất bản năm 1940), xem ra chả ăn nhập gì với nghề “làm quan” vốn đòi hỏi phải “dữ” để thực thi quyền lực, lại thoắt trở thành “thượng thư” của nền Cộng hòa đầu tiên của nước Việt? Hỏi tức trả lời. Chính năng lực thi ca kiệt xuất gắn liền với sự nổi tiếng của Huy Cận đã đưa ông vào “tầm ngắm” của các lãnh tụ chính trị, cụ thể là của các nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản.

Cha tôi kể: “Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Tổng Bí thư Trường Chinh gặp bố nói: “Tôi đã đọc Tràng Giang của anh ngay khi bài thơ xuất hiện trên báo Ngày Nay năm 1940. Đất nước trong Tràng Giang sao mà đẹp thế. Tôi nói với các đồng chí xung quanh: “Với tấm lòng yêu quê hương, yêu đất nước nồng nàn như vậy, nhất định Huy Cận sẽ đi vào con đường cách mạng để giải phóng dân tộc”. Trên thực tế thì Trường Chinh chủ động móc nối Huy Cận. Khi tôi đến thăm “ông trùm tình báo” Trần Quốc Hương, tức Mười Hương (gọi là “trùm tình báo” vì Mười Hương là người tổ chức và cũng là cấp trên trực tiếp của những điệp viên chiến lược cộng sản nổi tiếng nhất trong Chiến tranh Việt Nam: Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Phạm Ngọc Thảo và Phạm Xuân Ẩn), ông nói: “Anh Cận hoạt động bí mật rất giỏi. Tôi là liên lạc viên đơn tuyến giữa anh Cận và Tổng Bí thư Trường Chinh đấy”.

Huy Cận cũng được lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý ngay lần gặp đầu ở Quốc dân Đại hội tổ chức tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang vào trung tuần tháng 8 năm 1945. Cha tôi kể rằng Hồ Chí Minh thấy ông đang nói chuyện với các đại biểu khác thì ngoắc tay gọi ông lại và hỏi: “Đồng chí hoạt động ở tỉnh nào về?”. Sau khi nghe Huy Cận nói ông mới hoạt động ba, bốn năm tại Hà Nội trong sinh viên, trí thức, nhất là trí thức khoa học, Hồ Chí Minh nói với ông: “Làm cách mạng thì không phân biệt người trước người sau, người hoạt động lâu năm với người mới vào phong trào, cốt nhất là có nhiệt huyết với sự nghiệp giải phóng dân tộc”(3).

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt tại Hà Nội ngày 02/9/1945, Bộ trưởng không bộ Cù Huy Cận đứng ở hàng trên, thứ hai từ phải sang. Bản quyền hình ảnh: OTHER

Sự tín nhiệm của Hồ Chí Minh và Trường Chinh, cũng là những người làm thơ(4), giải thích vì sao Huy Cận được Quốc dân Đại hội bầu vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng có sứ mệnh tổ chức Tổng khởi nghĩa giành chính quyền để rồi ngay sau đó trở thành bộ trưởng của Chính phủ đầu tiên của chính thể Cộng hòa. Cha tôi nhớ lại: “Ông Trần Huy Liệu giới thiệu Huy Cận vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng với lời giới thiệu: “Nhà thơ Huy Cận, bây giờ đã “bỏ bút nghiên theo việc đao cung”, xin Đại hội bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng”. Bỗng nhiên, ở hàng đầu có một ông dáng cao cao đứng lên nói: “Tôi không đồng ý!”. Huy Cận chột dạ, chắc ông này không muốn bầu mình vào Uỷ ban. Ông Trần Huy Liệu mới hỏi tại sao, thì ông phản đối mới nói thế này: “Tôi không đồng tình với việc “bó bút nghiên theo việc đao cung”; bầu nhà thơ Huy Cận nổi tiếng vào Uỷ ban thì tôi đồng tình, nhưng mà bỏ bút nghiên là không đúng. Bút nghiên cũng là vũ khí đấu tranh cho độc lập dân tộc”. Người ấy là ai? Người ấy là đồng chí Tống, bí danh của đồng chí Phạm Văn Đồng. Cả ông Liệu và tôi thở phào một cái…”(5).

Tiếp tục bút nghiên?

Thế nhưng công việc của “quan cách mạng” mà ông được bổ ngay sau đó đã không cho phép Huy Cận tiếp tục “bút nghiên” theo nghĩa sáng tác văn chương. Bù đầu vì chính quyền còn non trẻ, mọi cái đều bắt đầu từ con số “không”. Chính phủ lại phải đối mặt với “tồn tại hay không tồn tại” khi phải giải quyết nạn đói làm 2 triệu người chết mà phát xít Nhật gây ra trước đó(6), đặc biệt sự chống đối vũ trang của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng thân Quốc Dân Đảng Trung Hoa, nhất là khi thực dân Pháp đã tái xâm lược(7). Quan trọng hơn cả là cái “cái tôi” đã làm nên “Thơ Mới”(8) đã không có chỗ trong “văn nghệ cách mạng”!

Bẩm sinh là thi sĩ mà lại không làm thơ được nên Huy Cận không tránh khỏi bi quan. Một đêm trăng tại một đồn điền ở Tuyên Quang thuộc ATK (An toàn khu do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát), Huy Cận tâm sự với Xuân Diệu về bước đường làm thơ. Cha tôi nhớ lại: “Lúc đó tôi thấy làm thơ sao khó quá, mặc dù rất muốn làm, và tôi đã hơi bi quan, thầm nghĩ không biết mình có còn tiếp tục được sự nghiệp văn thơ không”(9). Điều này giải thích vì sao chỉ đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thì “nửa mặt nhà thơ” của cha tôi mới dần dà trở lại.

Đó là “Đoàn thuyền đánh cá” (1958), “Mưa Xuân trên biển” (1959), “Anh viết bài thơ” (1959), “Các vị La Hán chùa Tây Phương” (1960), “Trò chuyện với kim tự tháp” (1962)… Giữa năm 1963, Huy Cận gửi tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh tập thơ Bài thơ cuộc đời của ông mới xuất bản với mong muốn nhận được lời phê bình. Cha tôi kể rằng trong những năm kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc, mỗi lúc Hồ Chí Minh làm bài thơ mới nào bằng chữ Hán, hoặc bằng tiếng Việt thì lại gọi ông đến đọc cho nghe, và bao giờ cũng hỏi có ý kiến gì góp không. Tác giả “Nhật ký trong tù” còn nhờ Huy Cận dịch bài thất ngôn tứ tuyệt “Trăng vào cửa sổ” bằng tiếng Hán và cha tôi đã diễn ra bằng bốn câu lục bát như sau:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ,

Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.

Chuông lầu gọi tỉnh giấc thu,

Ấy tin thắng trận biên khu mới về”.

Huy Cận, Xuân Diệu

Nhà thơ Huy Cận (phải) và phu nhân, bà Ngô Thị Xuân Như, em gái của nhà thơ Xuân Diệu (trái) tại Chiến khu Việt Bắc. Bản quyền hình ảnh: OTHER.

Vậy nên Huy Cận mong Hồ Chí Minh góp ý cho tập thơ của ông âu cũng là “có đi có lại” giữa “bạn thơ” với nhau. Mấy hôm sau, Việt Phương, thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, mang đến cho cha tôi một tờ giấy có một bài tứ tuyệt viết tay của vị Chủ tịch nước như sau:

“Cảm ơn chú biếu Bác quyển thơ,

Bác xem quyển thơ suốt mấy giờ.

Muốn Bác phê bình, khó nói nhỉ!

Bài hay chen lẫn với bài vừa”.

Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, người cầm chịch “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, thì thành thật hơn. Năm 1964, khi gặp Huy Cận ở bến phà Ròn, Quảng Bình, Lê Duẩn nói với tác giả Lửa Thiêng: “Thơ trước cách mạng của anh, tôi mê, thơ sau cách mạng của anh tôi chưa mê”(10).

Còn “nhà thơ cộng sản tiêu biêu biểu” Tố Hữu, từng là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn hay “ông trùm văn nghệ” của Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, thì thốt lên “nhớ Xuân Diệu lắm!” rồi nghẹn ngào đọc “Vạn lý tình” sáng tác năm 1940 của Huy Cận, ngay trên sân khấu của Lễ kỷ niệm 100 năm trường Quốc Học Huế tổ chức năm 1996 tại Hà Nội mà tôi tham dự:

“Người ở bên trời, ta ở đây;

Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.

Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,

Vạn lý sầu lên núi tiếp mây.

Nắng đã xế về bên xứ bạn;

Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy.

Trông về bốn phía không nguôi nhớ,

Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.

Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt,

Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.

Chiếu chăn không ấm người nằm một

Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay”.

Đến một “nhà thơ cộng sản tiêu biêu biểu” từng ở đỉnh cao quyền lực như vậy mà trước nhân tình thế thái(11) còn phải lấy Xuân Diệu và Huy Cận của Thơ Mới đầy nhân tính để trải lòng thì rõ là “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi” như tuyên ngôn của đại thi hào Đức Goethe (12).

C.H.H.V.

_________

* Bài viết phản ánh quan điểm riêng và thể hiện lối hành văn của tác giả, con trai Huy Cận, nhân đánh dấu lần thứ 100 năm sinh nhà thơ (31/5/1919 – 31/5/2019).

_________

Chú thích

(1) Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu, là bác ruột (anh ruột bà Ngô Thị Xuân Như, vợ Huy Cận) và là cha nuôi của tác giả.

(2) Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận, thân phụ của tác giả.

(3) Huy Cận – Hồi ký Song Đôi – Nhà xuất bản Hội Nhà Văn.

(4) Hồ Chí Minh là tác giả của Nhật ký trong tù bằng tiếng Hán; Trường Chinh làm nhiều bài thơ, trong đó có bài Là Thi sĩ, với bút danh Sóng Hồng

(5) Sách đã dẫn.

(6) Ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa xác định 6 vấn đề cấp bách mà “Phát động phong trào tăng gia sản xuất để chống nạn đói, mở ngay cuộc lạc quyên gạo để giúp đỡ người nghèo” đứng ở vị trí thứ nhất. Bộ trưởng không bộ Cù Huy Cận ngay sau đó được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Canh Nông để giải quyết vấn đề cấp bách thứ nhất này. Kết quả là nạn đói đã được đẩy lùi.

(7) Với tư cách Thứ trưởng Bộ Nội Vụ, Huy Cận được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao giúp Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng thực hành Quyền Chủ tịch nước trong khi Chủ tịch sang Pháp đàm phán (31/5/1946 – 21/9/1946). Cũng với tư cách lãnh đạo Bộ Nội Vụ, Huy Cận phụ trách Nha Công an vụ, tiền thân của Bộ Công an, ký Nghị định số 215/NĐ-P2 ngày 25 tháng 6 năm 1946 thành lập Trường Huấn luyện Công an, “lò” của các “lò” đào tạo công an và an ninh. Huy Cận cũng giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng chuẩn y tấn công trụ sở Quốc Dân Đảng tại phố Ôn Như Hầu và trụ sở đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, Hà Nội vào tháng 7/1946.

(8) Trong “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận…”).

(9) Sách đã dẫn.

(10) Sách đã dẫn.

(11) Thơ Tố Hữu thoát thai từ Thơ Mới nên Tố Hữu bày tỏ ngưỡng mộ Huy Cận và Xuân Diệu khi gặp lại hai ông sau Cách mạng tháng 8 (1945). Trong kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu viết thư nài nỉ Xuân Diệu về làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ của Hội Văn Nghệ Việt Nam (tiền thân là Hội Văn Hóa Cứu Quốc). Tuy nhiên, khi ở vị trí quyền lực từ sau 1954, Tố Hữu chỉ đạo “đánh” Thơ Mới nói riêng, văn chương trước Cách mạng tháng 8 nói chung nhằm khẳng định vị trí độc tôn của “thơ văn cách mạng” mà ông là biểu tượng. Trước thực tế phũ phàng ấy, Xuân Diệu đã phải thốt lên: “Một số tác phẩm đã đạt tới một mức nghệ thuật nào và đã có một khuynh hướng tiến bộ so với hoàn cảnh thời đó, thì vẫn còn lại một giá trị văn học nghệ thuật. Hoàn toàn vứt cả, coi nó là “dưới Zê-rô”, là không có quan điểm lịch sử trong phê bình” (Xuân Diệu – Những bước đường tư tưởng của tôi – NXB Văn hóa 1958). Thời gian này tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng, Hà Nội nơi Tố Hữu ở luôn có một đơn vị công an vũ trang túc trực và khách thì nườm nượp. Sau khi Tố Hữu bất ngờ bị loại ra khỏi quyền lực tại Đại hội Đảng lần thứ 6 tổ chức năm 1986 mà trước đó ông được dự kiến nắm chức Tổng Bí thư, nhà ông không còn lính gác và khách xưa hầu vắng bóng, trên sân xào xạc lá táo vàng rơi. Huy Cận cha tôi thỉnh thoảng vẫn lại thăm Tố Hữu, có đưa tôi theo cùng.

(12) Bài thơ “Cây đời mãi mãi xanh tươi” và bài tiểu luận “Và cây đời mãi mãi xanh tươi” in trong tập tiểu luận cùng tên của Xuân Diệu lấy cảm hứng từ tuyên ngôn này của Goether.

Tác giả gửi BVN.

This entry was posted in Huy Cận. Bookmark the permalink.