Thường Sơn
Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt thường niên một lần nữa được tổ chức tại thủ phủ của chính thể độc đảng, vào khoảng trung tuần tháng 5 năm 2019. Lần này liệu có gì đáng hy vọng hơn là một kết quả không có gì vào năm 2017 và 2018?
Cuộc Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt trong bối cảnh năm 2017 thậm chí còn có lợi thế khá lớn so với Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt 2018 khi giới chóp bu Việt Nam đã phải chủ động bắn tiếng về một chuyến thăm Mỹ dành cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, với mục đích quan trọng là nhằm đạt được Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ – một nhu cầu quá thiết thân được giới chóp bu Việt Nam đặt lên ưu tiên hàng đầu trong chính sách đu dây chính trị và làm tất cả để giữ được “sự tồn vong của chế độ”, trong tình cảnh nền kinh tế đang hội tụ khá nhiều dấu hiệu khủng hoảng.
2017: phái đoàn đối thoại nhân quyền Mỹ gặp một số người bất đồng chính kiến ở Sài Gòn.
2017 cũng là bối cảnh mà giới nghị sĩ Mỹ, đặc biệt là nhóm “Vietnam Caucus” bao gồm vài chục nghị sĩ Mỹ quan tâm đến vấn đề Việt Nam – gia tăng áp lực đòi hỏi cải thiện nhân quyền đối với Hà Nội để đổi lấy thương mại với Mỹ. “Tùy Việt Nam thôi” – những thủ lĩnh của nhóm này như Thượng nghĩ sĩ Alan Lowenthal đã tuyên bố như vậy.
Nhưng kết quả Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt 2017 đã đánh dấu một thực tế mà khó dùng từ nào khác hơn là “thất bại” đối với phái đoàn đối thoại của bà Virginia Bennett – Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao về dân chủ, nhân quyền và lao động, một chính khách mới trong chính quyền Donald Trump và có lẽ chưa có mấy kinh nghiệm về các thủ thuật trả treo nhân quyền của giới lãnh đạo Việt Nam.
Kết quả mà bà Bennett nhận được bằng những lời hứa hẹn chung chung và xảo ngôn của trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Việt Nam – một quan chức chỉ ở cấp Vụ trưởng Bộ Ngoại giao và năm nào cũng có nhiệm vụ thông báo những lời hứa hẹn không hề được bảo chứng như thế – là sau cuộc đối thoại này đã không có gì được cải thiện.
Thậm chí sau khi Thủ tướng Phúc kết thúc cuộc gặp với Tổng thống Trump ở Mỹ mà đã không nhận được tín hiệu nào về Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ, thậm chí còn bị Trump “đòi nợ” về tình trạng nhập siêu quá nhiều của Mỹ đối với Việt Nam trong lúc Trump lại gần như không quan tâm đến vấn đề nhân quyền, giới cầm quyền Việt Nam đã bắt bớ đến gần ba chục nhà hoạt động nhân quyền chỉ riêng trong năm 2017, đồng thời đưa ra xử tù cực kỳ nặng nề đối với họ.
Trước tình trạng chính quyền Việt Nam gia tăng đàn áp người bất đồng, có vẻ phía Mỹ đã phải tạm ngưng đàm phán nhân quyền, dù cơ chế đối thoại nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam được duy trì 2 lần mỗi năm. Vào cuối năm 2017, đã không có đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ nào diễn ra.
Một dấu hỏi lớn đang được nêu ra là vì sao đã có trong tay một vũ khí nhân quyền rất sắc sảo là Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu (Global Magnitsky Human Rights Accountability Act) – đã được Quốc hội Mỹ chính thức thông qua vào ngày 8/12/2016, người Mỹ lại chưa hề áp dụng những biện pháp chế tài thích đáng của đạo luật này đối với giới quan chức Việt nam kể từ đó đến nay?
Theo Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu, những quan chức vi phạm nhân quyền sẽ bị chế tài theo hai cách. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được miễn trừ lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự miễn trừ đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, Chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che giấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên.
Tại rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, giấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam lại rất phổ biến. Những giới chức tham nhũng mà trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Một trong những bài học kinh nghiệm thành công nhất của người Mỹ chính là Miến Điện.
Nhiều thông tin cho biết sự hiện diện của một bản danh sách của Mỹ bao gồm tới 5000 cái tên quan chức quân đội và dân sự Miến Điện – liên đới đàn áp nhân quyền và tham nhũng mà phải bị chế tài về nhập cảnh vào Mỹ và phong tỏa tài sản cá nhân – đã góp phần không nhỏ khiến thể chế quân phiệt của Miến Điện phải chuyển đổi sang bầu không khí dân chủ hóa kể từ năm 2011.
T.S.
VNTB gửi BVN