15 năm một nghị quyết – vết thương dân tộc vẫn chưa lành!

FB Nguyễn Đình Bin

Còn một tuần nữa là đến 26-3, kỷ niệm 15 năm ra đời Nghị quyết 36 NQ/TW, nghị quyết công khai đầu tiên của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Khi nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đầu năm 2000 tôi có một mong muốn cháy bỏng là làm sao để hàn gắn được vết thương dân tộc, sau một phần tư thế kỷ, vẫn còn rỉ máu? Tôi suy nghĩ nung nấu và định ra một số việc tôi cho là then chốt, trong đó quan trọng nhất, quyết định nhất là phải có một nghị quyết công khai của cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng nói rõ quan điểm, đường lối đổi mới, quang minh chính đại về lĩnh vực công tác này, để thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, ở cả trong và ngoài nước, và cho cả thế giới đều biết. Thế là tôi bắt tay vào việc. Từ khi trực tiếp nêu ra ý tưởng rồi chủ trì và trực tiếp soạn thảo không ít đoạn, kiên trì thuyết phục để đạt được sự đồng tình, nhất trí từ cán bộ dưới quyền đến các Ban, Bộ, ngành hữu quan và kiên trì theo đuổi, thúc đẩy suốt 4 năm ròng rã, cuối cùng văn kiện lịch sử này đã được ban hành. Cùng với Nghị quyết 36 NQ/TW tôi cũng đạt được – quả thực cũng với không ít lao tâm, khổ tứ – một số trong các mục tiêu khác đã định ra như thành lập Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, lập Quỹ hỗ trợ cộng đồng, cho phép thân nhân vào thắp hương, tôn tạo mồ mả các sỹ quan, binh sỹ quân đội Sài Gòn tại nghĩa trang Bình Dương, trực tiếp kiến nghị với Bí thư TƯ Đảng, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, phụ trách đối ngoại khi đó, rồi tiến hành gặp gỡ và mời Nguyễn Cao Kỳ, một số nhân vật coi là chống đối khác về nước …

Sau 15 năm đi vào cuộc sống, Nghị quyết 36 NQ/TW đã được thực thi phần nào, được cộng đồng hoan nghênh, tạo ra khá nhiều đổi thay. Nhưng tôi vẫn buồn: vết thương dân tộc thực sự vẫn chưa lành!!! Với các nước ngoài đã từng đô hộ, xâm lược nước ta, gây ra biết bao tội ác tầy trời, biết bao đau thương, mất mát, hậu quả khủng khiếp, nặng nề… mà nhân dân ta vẫn còn phải gánh chịu, với truyền thống khoan dung, hòa hiếu, chúng ta đã gác lại quá khứ, bình thường hóa quan hệ và kết bạn, trở thành những đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện… vì tương lai của mỗi quốc gia, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Vậy mà, vì sao, cuộc chiến ác liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập kỷ mà dân tộc ta, nói cho cùng đều là nạn nhân của sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài nói trên, vẫn chưa hòa giải được với nhau? Cũng chính sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài đó đã chia ly bao gia đình Việt và cả dân tộc Việt, gây ra cảnh huynh đệ tương tàn trên đất nước ta. Thế mà ta đã hòa giải được với họ, còn chúng ta, anh em một nhà “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, thì lại chưa hòa giải được với nhau?

Tôi trộm nghĩ: Tất cả mọi con dân Việt chúng ta, dù đang ở bất cứ nơi đâu, đều phải cùng nhau suy ngẫm, tìm ra nguyên nhân vì sao, và cùng nhau khắc phục! Sự trường tồn, tương lai của Dân tộc ta, Tổ quốc ta và hạnh phúc của chính mỗi bản thân và mỗi gia đình con Lạc, cháu Hồng chúng ta đòi hỏi phải làm điều đó! Không hòa giải được với nhau thì nói gì đến cùng nhau đoàn kết, thực hiện được lời Hồ Chí Minh đã dậy “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”? Mà không đoàn kết với nhau được thì làm sao tạo nên được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc để mà kết hợp sức mạnh ấy với sức mạnh thời đại, như Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết rất đúng về bài học thắng lợi, đặng xây dựng và bảo vệ thành công một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, cường thịnh, với toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, bầu trời và biển, đảo, dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, có vị trí, vai trò xứng đáng trên thế giới đầy biến động, cạnh tranh và thách thức quyết liệt này?!

Nhân đây, tôi xin post lên bài tôi viết theo yêu cầu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, cách đây đã gần 10 năm, đã được đăng tải trên Tạp chí Quê Hương và một số báo mạng, về quá trình thai nghén và ra đời của Nghị quyết 36 và một số việc tôi đã làm được trong 4 năm công tác ở Uỷ ban, để bạn nào quan tâm và chưa đọc có thể đọc. Bài viết để đăng công khai nên chỉ nói được những gì nên nói và có thể nói. Rất mong các bạn thông cảm.

Sau đây là toàn văn bài viết:

Những kỉ niệm không phai mờ trong công tác cộng đồng

Đại sứ Nguyễn Đình Bin*

Trong hơn bốn mươi năm công tác tại ngành ngoại giao, một trong những vinh hạnh lớn nhất của tôi là đã được kề vai sát cánh với đội ngũ cán bộ, nhân viên Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (UBVNVNONN), cơ quan tham mưu và quản lý của Đảng và Nhà nước ta về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, trên cương vị là người đứng đầu, trong giai đoạn rất đáng ghi nhớ: 4 năm mở màn thiên niên kỷ thứ ba (2000 – 2003).

Bốn năm là một quãng thời gian không dài trên chặng đường nửa thế kỷ từ khi ra đời đến nay của Ban Việt kiều trung ương (VKTƯ), rồi UBVNVNONN và nay là Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm không thể phai mờ và bài học quý.

Đó là những năm tháng công cuộc đổi mới toàn diện của nhân dân ta, do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, được triển khai mạnh mẽ và toàn diện, giữa một thế giới đang biến động sâu sắc, đan xen những thời cơ lớn với thách thức cũng lớn.

Trên bình diện chủ quan thì UBVNVNONN, qua 40 năm hoạt động và phát triển và sau 3 năm Thủ tướng Chính phủ quyết định sát nhập vào Bộ Ngọai giao, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu và có thêm điều kiện để có những bước phát triển mới về chất.

Hôm nay, nhìn lại quãng thời gian ấy, tôi vui mừng là đã cùng tập thể cán bộ nhân viên UBVNVNONN tăng cường đoàn kết, không ngừng phấn đấu vươn lên, kế thừa và phát huy được những kinh nghiệm quý báu của các lớp anh, chị đi trước, đồng thời đã tự đổi mới được mình, trước hết là đổi mới tư duy, phát huy mạnh mẽ bản lĩnh, tinh thần chủ động, tiến công, dám chịu trách nhiệm, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu và quản lý mà Đảng và Nhà nước giao phó trên lĩnh vực công tác này, có những đóng góp xứng đáng vào các thành tích đáng tự hào trong 50 năm phát triển của UBNNVNVNONN.

Trong số các sự kiện giờ đây dồn dập hiện lên trong ký ức tôi, nổi bật nhất, sâu đậm nhất là qúa trình thai nghén và ra đời của Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, nghị quyết công khai đầu tiên của cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng về công tác đối với NVNONN.

Đầu năm 2000, sau khi nhận quyết định bổ nhiệm của Thủ tướng Phan Văn Khải, tôi khẩn trương tìm hiểu công việc, nắm các tư tưởng chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước để định hướng cho mình và xây dựng chương trình công tác tổng thể. Tôi nghiên cứu lại Nghị quyết 08-NQ/TƯ, ngày 29/11/1993 của BCT (khóa VII), một văn kiện đã thể hiện nhiều quan điểm đổi mới chủ yếu của Đảng ta trên lĩnh vực này.

Nhưng, đến thời điểm ấy, Nghị quyết ban hành đã được gần 7 năm, tình hình trong nước, tình hình cộng đồng cũng như tình hình thế giới đã có nhiều điểm mới. Tôi thấy cần phải tiến hành tổng kết việc thực hiện nghị quyết quan trong này, từ đó đề xuất những kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cần thiết để đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới.

Qua quá trình thực hiện tổng kết, chúng tôi phát hiện một thực tế là nhận thức chung về cộng đồng và công tác cộng đồng còn nhiều điểm quá lạc hậu và lệch lạc nữa. Nhiều lãnh đạo các ngành, các cấp thậm chí còn không biết là đã có NQ – 08 của BCT. Điều này hiểu được, vì đó là một nghị quyết mật và ra đời đã gần 7 năm.

Trong khoảng thời gian này, rất nhiều lãnh đạo các ngành, các cấp đã thay đổi. Chính thực tế này đã làm cho tôi nảy sinh ý tưởng cần kiến nghị BCT ra một NQ mới và công khai về vấn đề này, bởi tôi nghĩ rằng để có thể làm tốt công tác đối với cộng đồng NVNONN trong thời kỳ mới thì, điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất và quyết định nhất là phải tạo được một nhận thức chung, thực sự đổi mới, đúng đắn và thống nhất.

Không chỉ cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp và các đảng viên mà toàn bộ hệ thống chính trị cũng như toàn thể nhân dân ta và cả cộng đồng NVNONN cũng phải được biết, hiểu và quán triệt tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực này. Hơn nữa, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với cộng đồng NVNONN là quang minh, chính đại, không hề có gì trái với lợi ích của các nước nơi bà con ta đang làm ăn, sinh sống, mà ngược lại còn góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước đó với nước ta.

Bởi vậy, cũng rất cần phải tuyên truyền rộng rãi chủ trương, chính sách đó cho thế giới hiểu. Và, biện pháp khả thi và hiệu nghiệm nhất để đạt được các mục tiêu này là BCT ra một nghị quyết công khai, nói rõ tư duy, các quan điểm và chủ trương đổi mới đó.

Nhưng khi chỉ đạo UBVNVNONN xây dựng “Đề án tăng cường công tác vận động cộng đồng”, tôi nêu ý này ra thì đã có một số ý kiến không đồng tình ngay trong số cán bộ chủ chốt của UB, vì cho rằng các nghị quyết của BCT lâu nay hầu hết đều là mật, Nghị quyết 08 cũng là một văn kiện mật, BCT không thể ra một nghị quyết công khai về một vấn đề phức tạp và tế nhị như vậy.

Nhưng qua tranh luận thật sự dân chủ, thẳng thắn, ý tưởng đổi mới này đã được hoàn toàn nhất trí. Chúng tôi đã tập trung lực lượng khẩn trương xây dựng Đề án, trong đó kiến nghị 8 giải pháp tổng thể mà điểm then chốt nhất, có tính chất quyết định để đổi mới công tác vận động cộng đồng là BCT ra một Nghị quyết mới, công khai về vấn đề này.

Nhận thức rõ đây là một công việc rất quan trọng và nhạy cảm, tôi đã tranh thủ trình trước 2 Ủy viên BCT (đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng phụ trách đối ngoại và đồng chí Trương Tấn Sang, khi đó là Trưởng Ban kinh tế TƯ) để cho ý kiến sơ bộ. Thầm mừng được cả 2 đồng chí bật đèn xanh- đồng chí Trương Tấn Sang còn khen là đề án tốt, tôi rà soát kỹ lại và sửa sang lần chót văn bản và ngày 28/7/2000 đã ký Tờ trình Đề án lên Thường vụ BCT (Khóa VIII, Trung ương Đảng không có Ban Bí thư) và Thủ tướng Chính phủ.

Tiếp đó là những ngày tháng chờ đợi. Qua các mối quan hệ công tác, tôi cố gắng thúc đẩy việc đưa Đề án ra trình xin ý kiến Lãnh đạo. Nhưng, thời điểm đó, Lãnh đạo Đảng đang tập trung vào việc chuẩn bị, tiếp đến là tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, và sau đó là vào việc triển khai các NQ của Đại hội IX, có thể vì vậy mà chưa thể xem xét việc này.

Đầu tháng 10/2001, tôi thật vui mừng nhận được công văn của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đối với “Đề án tăng cường công tác vận động cộng đồng”, trong đó Thủ tướng chỉ thị “Ban cán sự Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chuẩn bị Đề án trình Bộ Chính trị có Nghị quyết (hoặc Chỉ thị) về lĩnh vực công tác này”.

Thế là tôi cùng các cán bộ hữu quan của UB bắt tay vào xây dựng dự thảo Đề cương, rồi Đề cương chi tiết và cuối cùng là văn kiện mà chúng tôi vẫn kiên trì kiến nghị là “Nghị quyết công khai của BCT”. Trong suốt quá trình này, chúng tôi đều tiến hành trao đổi, lấy ý kiến đóng góp của Mặt trận Tổ quốc và các Bộ, cơ quan, ban, ngành hữu quan. Quả thực, đây là một công việc không đơn giản.

Nhưng qua kiên trì trao đổi cởi mở, tranh luận thẳng thắn, cuối cùng, ngoại trừ một cơ quan còn phân vân giữa “ Nghị quyết” hay “ Chỉ thị”, 12 Bộ, cơ quan, ban, ngành hữu quan khác đều nhất trí với chúng tôi là kiến nghị BCT ra” Nghị quyết công khai”.

Ngày 20/5/2002 tôi ký Tờ trình dự thảo Nghị quyết lên BCT Và Thủ tướng Chính phủ. Tiếp đó lại là những tháng ngày cố gắng thúc đẩy việc xem xét kiến nghị này, nhưng vẫn chưa có thông tin khích lệ.

Ngày 12/3/2003, Taị Hội nghị toàn thể lần thứ 7, TƯ Đảng khóa IX ra Nghị quyết về “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tôi thầm mừng: thời cơ đã đến để làm sống lại kiến nghị mà chúng tôi đã kiên trì đeo đuổi suốt 3 năm qua.

Bởi BCT ra nghị quyết mới này chính là một bước triển khai và cụ thể hóa Nghị quyết TƯ 7 đối với cộng đồng nười Việt Nam ở nước ngoài, một bộ phận không thể tách rời của toàn dân tộc Việt Nam. Thế là chúng tôi lại rà soát lại các văn bản và ngày 14/4/2003, tôi ký một Tờ trình mới lên BCT, nhắc lại kiến nghị này trong bối cảnh tình hình và yêu cầu mới.

Tiếp theo đó, nửa đầu tháng 6/2003, tôi được cử dẫn đầu một đoàn liên ngành đầu tiên của nước ta đi thăm, tiếp xúc trên tinh thần rất chủ động, thẳng thắn, cởi mở với cộng đồng người Việt tại Canada và Hoa Kỳ.

Những nét rất mới trong tình hình cộng đồng nắm được qua chuyến đi này càng củng cố thêm niềm tin và thôi thúc tôi phải tiếp tục thúc đẩy kiến nghị nói trên. Tôi chủ động xin ý kiến đồng chí Vũ Khoan, Bí thư TƯ Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách đối ngoại. Tôi rất mừng được đồng chí đồng ý.

Thế là lại một lần nữa, tôi cùng anh chị em cán bộ hữu quan của UB khẩn trương rà soát, chỉnh lý lại văn bản đã trình trước đây; và ngày 25/6/2003, tôi lại ký Tờ trình lên BCT nhắc lại kiến nghị nói trên, lần này với niềm hy vọng lớn hơn bao giờ hết. Thật là may mắn, đồng chí Vũ Khoan đã dành thời gian đích thân đọc và cho ý kiến chỉ đạo trực tiếp vào văn bản.

Vào thời điểm đó, tôi đã có quyết định của Lãnh đạo cấp cao cử làm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền nước ta tại Pháp. Tôi đặt mục tiêu: phải hoàn thành bằng được công việc then chốt này mà tôi đã tâm huyết, trăn trở từ khi mới nhận nhiệm vụ làm Chủ nhiệm UBVNVNONN.

Với quyết tâm đó, theo ý kiến chỉ đạo rất cụ thể của đồng chí Vũ Khoan, tôi đã dành thời gian, công sức cùng anh chị em cán bộ UB hoàn chỉnh dự thảo. Rồi lại lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, ban, ngành hữu quan một lần nữa. Tôi rất vui đã thực hiện được mục tiêu đề ra: hoàn chỉnh lần cuối cùng các văn bản và kịp trình Dự thảo NQ lên BCT trước khi tôi lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ mới vào đầu tháng 12/2003.

Cũng như các lần trước, trong Tờ trình, chúng tôi đã báo cáo ý kiến của tất cả các cơ quan, bộ, ban, ngành hữu quan để BCT có đầy đủ cơ sở xem xét. Đáng lưu ý là, lần cuối này, ngoài một cơ quan ngay từ đầu vẫn giữ ý kiến phân vân giữa kiến nghị BCT ra “ Nghị quyết” hay “ Chỉ thị” thì có thêm một cơ quan rất quan trọng trước đây tán thành, nay không đồng ý với việc kiến nghị BCT ra Nghị quyết công khai nữa.

Ít tháng sau, trong khi đang công tác tại Pháp, tôi thật sự vui mừng nhận được tin và toàn văn Nghị quyết số 36…., bản NQ công khai đầu tiên của BCT về cộng đồng NVNONN, ban hành ngày 26/3/2004.

Như trên đã nói, Nghị quyết 36 của BCT chính là bước cụ thể hóa và triển khai Nghị quyết 7 của TƯ Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đối với hơn 3 triệu đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài, một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một văn kiện có ý nghĩa lịch sử, có giá trị cơ bản, to lớn, toàn diện và lâu dài.

Từ đó, trên cơ sở các tư tưởng, quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo của Nghị quyết 36, nhiều chính sách đổi mới cụ thể của Nhà nước ta đối với cộng đồng đã (và sẽ còn tiếp tục) được ban hành, được bà con kiều bào cũng như dư luận quốc tế nhiệt liệt hoan nghênh.

Trong khi tập trung trí tuệ, tâm sức vào việc then chốt nói trên tôi cũng tự đặt câu hỏi: có việc cụ thể nào khả thi mà có thể tạo tác động đột phá, thể hiện thực sự và mạnh mẽ tinh thần đổi mới, chủ trương khép lại quá khứ, thực hiện hòa hợp, đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng kiều bào ta?

Tôi nghĩ chiến tranh kết thúc và đất nước thống nhất đã một phần tư thế kỷ, cùng với cả nhân loại, dân tôc ta đã bước vào một thiên niên kỷ mới. Ngay với Hoa Kỳ, nước đã đem quân tới xâm lược nước ta, gây ra biết bao tội ác và hậu quả nặng nề cho nhân dân ta, thế mà từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, ta đã bắt đầu hợp tác với họ để tìm kiếm hài cốt những binh lính Mỹ mất tích trong chiến tranh, một chủ trương thể hiện rõ truyền thống khoan dung, nhân đạo của dân tộc ta, đã tác động tích cực tới dư luận Hoa Kỳ và thế giới.

Vậy, đối với những binh lính Sài Gòn, là đồng bào của ta, đã chết, xét cho cùng cũng là những nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược đó, thì ta cần và có thể làm gì? Tôi quyết định trực tiếp cùng một số cán bộ của UB vào khảo sát nghĩa trang mà chính quyền Sài Gòn cũ đã xây dựng tại xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, nơi tập trung nhiều mồ mả nhất của binh lính chế độ cũ.

Sau chuyến đi, chúng tôi đã nhanh chóng thống nhất trong nội bộ UB một ý tưởng mới và bắt tay ngay vào việc trao đổi, bàn bạc và thuyết phục, tranh thủ sự đồng tình của các cơ quan, bộ phận và cá nhân hữu quan khác đối với ý tưởng này, một việc không hề đơn giản vì cực kỳ nhạy cảm, khi nêu ra đã gặp không ít sự không đồng tình, hiểu lầm, phản đối.

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn kiên trì, không nản chí. Và khi thấy tình hình đã tương đối thuận, ngày 05/1/2001, tôi đã ký Tờ trình lên Thường vụ BCT, đề xuất chủ trương cho thân nhân ở trong nước hoặc đang sinh sống ở nước ngoài bắt đầu từ Tết Tân Tỵ được chỉnh trang, tu bổ lại những ngôi mộ của người thân nguyên là sỹ quan, binh lính chế độ Sài Gòn cũ tại nghĩa trang tỉnh Bình Dương bình thường như các khu mộ chí khác của nhân dân.

Tôi thật sự vui mừng là chưa đầy nửa tháng sau, tại công văn số 5333-CV/VPTW, ngày 19/1/2001, Văn phòng TƯ Đảng đã thông báo ý kiến của Thường vụ BCT đồng ý với kiến nghị đó.

Nhưng cũng thật là buồn, một chủ trương đúng đắn, sáng ngời tính nhân văn, được cấp Lãnh đạo cao nhất của Đảng rất nhanh chóng xem xét và chấp thuận như vậy, đã không được thực thi nghiêm túc, mặc dù UBVNVNONN và cá nhân tôi đã hết sức cố gắng để thúc đẩy thực hiện, mà phải chờ đợi hơn 5 năm sau, mãi đến cuối 2006, với ý kiến chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, chủ trương này mới được thi hành đầy đủ.

Một việc khác mà tôi cũng rất trăn trở và xác định là một trọng tâm công tác sau khi nhận nhiệm vụ là thành lập Hội liên lạc với người VN ở nước ngoài. Sự thật là ở thời điểm đó, vẫn còn một số ý kiến chưa thuận trong các cơ quan hữu quan, kể cả ở cấp Lãnh đạo.

Nhưng tôi thấy đã đến lúc rất cần sự ra đời của Hội ở cấp quốc gia, bởi hơn 20 Hội thân nhân kiều bào ở các địa phương đã được thành lập và hoạt động khá sôi nổi. Thế là chúng tôi bắt tay vào việc trao đổi, vận động, thuyết phục…

Sau khi đạt được sự đồng thuận, ngày 30/5/2000, tôi đã ký Tờ trình lên Thường vụ BCT và Thủ tướng Chính phủ kiến nghị xin chủ trương cho thành lập Hội liên lạc với người VN ở nước ngoài kèm theo Đề án cụ thể về thành lập Hội. Phấn khởi được bật đèn xanh, chúng tôi khẩn trương trao đổi, hiệp thương để mau chóng hình thành Ban vận động thành lập Hội, do GS.TSKH Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, làm Trưởng ban, rồi cùng với Ban vận động triển khai các công việc chuẩn bị để thành lập Hội phù hợp với các điều luật hữu quan hiện hành: xây dựng Điều lệ, tìm kiếm, trao đổi, hiệp thương về nhân sự, chuẩn bị nội dung, tổ chức, hậu cần, lễ tân… cho Đại hội lần thứ nhất trong điều kiện rất khó khăn về tài chính.

Cuối cùng, mọi công việc đã được hoàn tất và điều tôi nóng lòng mong đợi đã đến: Đại hội lần thứ nhất thành lập Hội liên lạc với người VN ở nước ngoài đã được tổ chức thành công ngày 4/2/2002 tại Hội trường Đại học Quốc gia, 19 Lê Thánh Tông, Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã cử ra Ban Chấp hành gồm 50 vị tiêu biểu, đai diện cho Mặt trận Tổ quốc VN, một số tổ chức quần chúng, các Hội địa phương…, do GS.TSKH Nguyễn Văn Đạo làm Chủ tịch, ông Phạm Khắc Lãm, nguyên Phó Chủ nhiệm UBVNVNONN làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký. Ban chấp hành còn có nhiều trí thức, nghệ sỹ lớn như các GS.TS Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Tài Thu, các NSND Đặng Nhật Minh, Chu Thúy Quỳnh, nhà sử học Dương Trung Quốc…

Từ khi ra đời, Hội đã và đang triển khai hoạt động ngày càng phong phú, thiết thực, góp phần tăng cường mối liên hệ giữa cộng đồng kiều bào với đất nước.

Một điều trăn trở khác của chúng tôi là công tác vận động cộng đồng kiều bào quan trọng, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước như vậy; thế mà chưa bao giờ có được một ngân sách cho công tác này, ngoại trừ những chi phí cho UBVNVNONN như một cơ quan hành chính và một số rất ít cán bộ chuyên trách công tác cộng đồng tại một số cơ quan đại diện của nước ta ở nước ngoài.

Bởi vậy, chúng tôi đã tích cực và kiên trì đề xuất, vận động, thuyết phục các ngành hữu quan và cả cấp Trên tán thành cho lập Quỹ hỗ trợ cộng đồng. Và thật vui là cuối cùng thì Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 990/QĐ-TTg, ngày 30/10/2002 cho phép thành lập “Quỹ hỗ trợ, vận đồng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”, với số ngân sách ban đầu 7 tỷ đồng do Nhà nước cấp.

Nhận thức tầm quan trọng của Quỹ, chúng tôi đã mời và được Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa nhận làm Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ. Từ ngày ra đời, Quỹ đã tài trợ trên 16 tỷ đồng cho 85 dự án rất thiết thực, hỗ trợ việc giảng dậy tiếng Việt, tổ chức trại hè về nguồn cội cho con em kiều bào, đưa các đoàn văn nghệ ra phục vụ cộng đồng, đưa nhiều trí thức kiều bào về góp phần phục vụ đất nước…

Trong 4 năm công tác tại UB, tôi đã có một số lần đi thăm, tiếp xúc với cộng đồng ở các địa bàn khác nhau. Mỗi chuyến đi đều để lại trong tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhưng, chuyến đi để lại những ấn tượng sâu đậm nhất là dịp tôi được cử dẫn đầu đoàn liên ngành đầu tiên đi thăm, tiếp xúc với bà con kiều bào ở Hoa Kỳ và Ca na da vào nửa đầu tháng 6/2003 mà tôi đã nhắc tới ở phần trên.

Đoàn có một số vị lãnh đạo các ngành như ông Nguyễn Tiến Võ, Ủy viên thường trực Đoàn Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ông Trịnh Xuân Giới, Phó ban thường trực Ban Dân vận TƯ; ông Trần Văn Tạo, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Thành Phố Hồ chí Minh, nguyên Ủy viên TV Thành ủy, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa và Giám đốc Sở Công an của Thành phố. Ban Bí thư đã cho ý kiến chỉ đạo khi chúng tôi trình Đề án chuyến đi.

Nhưng, trước khi lên đường, tôi vẫn xin gặp đồng chí Vũ Khoan, Bí thư TƯ Đảng, Phó Thủ tướng phụ trách đối ngoại, để xin thêm ý kiến chỉ đạo, đặc biệt là xin được triển khai với tinh thần mới thực sự chủ động, tiến công, cởi mở, theo đúng Nghị quyết TƯ 7 (khóa IX) về đại đoàn kết dân tộc vừa ban hành.

Tôi rất mừng là những đề xuất cụ thể theo tinh thần đó đã được đồng chí chấp thuận. Các thành viên trong Đoàn rất phấn khởi, nhưng cũng tỏ lo lắng trước trách nhiệm nặng nề khi tôi quán triệt trong toàn đoàn tinh thẩn mới đó trong ý kiến chỉ đạo của đồng chí Vũ Khoan. Trong chuyến đi này, ngoài các cuộc làm việc chính thức với các quan chức hữu quan nước sở tại, một trọng tâm là gặp gỡ, đối thoại với các thành phần khác nhau trong cộng đồng kiều bào.

Tôi không bao giờ có thể quên không khí thực sự cởi mở, thẳng thắn, chân tình trên tinh thần hòa giải dân tộc, cũng như những giây phút xúc động trong các cuộc gặp gỡ đó. Có một số kiều bào, sau bao năm tháng bị bưng bít, tác động bởi tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch với đất nước, đã khóc khi nghe chúng tôi thông báo tình hình đất nước và trả lời các câu hỏi, làm sáng tỏ các chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng.

Điểm đặc biệt nhất trong chuyến đi này là lần đầu tiên chúng tôi gặp gỡ một số nhân vật nguyên là lãnh đạo chính quyền Sài Gòn cũ và hoặc bất đồng chính kiến nổi bật trong đó có ông Nguyễn Cao Kỳ, ông Đỗ Ngọc Yến, Tổng Giám đốc Công ty Báo Người Việt, ông Nguyễn Ngọc Hải, “Chủ tịch Ủy ban bảo vệ chính nghĩa quốc gia” của thành phố Houston, nhạc sỹ Phạm Duy…

Tôi còn nhớ như in: sáng ngày 14/6/2003, tôi cùng Tổng Lãnh sự nước ta lúc đó tại San Francisco Nguyễn Mạnh Hùng đã chơi golf với vợ chồng ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ đã chủ động kể cho tôi nghe chi tiết câu chuyện hồi kháng chiến chống Pháp, ông đã bị đưa về Hà Nội như thế nào trong khi đang lên cơn sốt rét ác tính nguy kịch.

Cùng dạo bước trên sân cỏ gần 5 tiếng đồng hồ, trong không khí cởi mở, thẳng thắn, tôi và ông Kỳ đã trao đổi ý kiến về tình hình đất nước, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, về tình hình cộng đồng, tình hình khu vực Đông Nam Á…Ông đã bày tỏ sự đồng tình đối với các chủ trương đổi mới của Đảng ta, nói rõ không tán thành các hoạt động chống đất nước và ý kiến của một số cá nhân và nhóm phái trong cộng đồng đòi áp đặt mô hình dân chủ phương Tây vào đất nước ta…Sau cuộc chơi golf, tôi đã mời vợ chồng ông Kỳ ăn cơm cùng toàn đoàn chúng tôi.

Trong không khí cởi mở, vui vẻ của bữa cơm gặp lần đầu, với danh nghĩa Chủ nhiệm UBVNVNONN, tôi đã mời vợ chồng ông Kỳ về thăm quê hương. Một thoáng ngỡ ngàng, rồi niềm vui và xúc động đã lộ rõ trên nét mặt dày dạn phong sương của ông. Ông đã cảm ơn và sau đó bày tỏ với tôi mong muốn được Nhà nước cho phép đưa một đoàn doanh nhân về làm ăn, hợp tác với đất nước như một cử chỉ hòa giải. Nửa năm sau, khi đang công tác tại Paris, tôi rất vui nhận được tin ông Nguyễn Cao Kỳ đã về thăm quê hương sau nửa thế kỷ xa cách, bể dâu.

Tôi cũng không thể nào quên cuộc gặp gỡ tối ngày 9/6/2003 với vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Hải tại nhà ông. Vợ chồng ông Hải là người miền Bắc, sau Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 mới di cư vào Nam. Vừa bước vào nhà, tôi có ấn tượng như tới thăm một gia đình trí thức ở Hà Nội, một không gian đầy ắp màu sắc và hương vị văn hóa truyền thống Việt Nam.

Sau phần chào hỏi theo thông lệ, ông mời đoàn chúng tôi vừa dùng cơm tối vừa nói chuyện. Vừa ngồi vào bàn ăn, ông Hải đã nói thẳng với tôi: ông đang là “ Chủ tịch Ủy ban bảo vệ chính nghĩa quốc gia” của thành phố Houston, ông là người chống cộng sản và vẫn kiên quyết chống cộng sản.

Thế là bắt đầu cuộc đối thoại và tranh luận rất thẳng thắn và không ít lúc có thể nói là “nảy lửa” giữa tôi và ông suốt bữa cơm kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ, trong đó, ông lý giải và bảo vệ lập luận cơ bản của ông là theo chủ nghĩa cộng sản thì sẽ mất độc lập dân tộc, rơi vào vòng thống trị của Nga cộng, Trung cộng; vì vậy ông đã đi với Pháp rồi Mỹ, vì đó là cách duy nhất để chống lại nguy cơ đô hộ của Nga cộng, Trung cộng, bảo vệ độc lập dân tộc (?!).

Còn tôi, đã lấy những sự thật lịch sử của nước ta, của Đảng ta và quan hệ quốc tế liên quan, đồng thời làm rõ những chủ trương, chính sách đổi mới hiện nay để chứng minh cho ông chân lý hiển nhiên là chỉ có dưới ngọn cờ và sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tich Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam thì đất nước ta mới giành lại được độc lập, thống nhất và đang trên đường xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Cuộc gặp gỡ với vợ chồng ông Hải đã kết thúc bằng một bài hát dân tộc mà ông Hải là người hát và ông Trần Văn Tạo, thành viên trong đoàn chúng tôi, là người đệm đàn. Lúc chia tay, ông Hải phát biểu giọng xúc động: “Tôi không ngờ các anh chị lại là những người thật dễ thương!”.

Tôi cũng mời vợ chồng ông về thăm lại quê hương. Tôi được biết, chỉ vài tháng sau, vào dịp Quốc khánh năm 2003, ông Hải đã về thăm quê sau gần 50 năm xa cách và ông là một trong số kiều bào đầu tiên ở thành phố Houston đầu năm 2007 đã được nhận giấy miễn thị thực xuất nhập cảnh mỗi khi về nước.

Hà Nội, tháng 9 năm 2009

——————————-

(*) Nguyên: Ủy viên TƯ Đảng (khóa VIII), Thứ trưởng Thường trực, Bí thư ĐU Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban VNVNONN, Phó Bí thư ĐU Khối Đối ngoại TƯ, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam, thành viên các Ban chỉ đạo toàn quốc về Thông tin đối ngoại và Giải quyết hậu quả chất độc da cam, Đại sứ ĐMTQ tại Nicaragua kiêm Ecuador và tại Pháp kiêm Bồ Đào Nha.

Nguồn: https://www.facebook.com/dinh.nguyen.94009841/posts/2249753065087013

This entry was posted in Hòa giải. Bookmark the permalink.