Phạm Chí Dũng
Cái chết báo trước là điều không tránh khỏi. Chỉ có điều, từ nay đến đó là bao lâu? Chúng tôi không dám quả quyết như tác giả bài viết, nó sẽ xảy ra cùng với việc cạn kiệt các mỏ dầu. Nhưng việc cạn dầu cũng là hậu quả của những hành động phung phí thả cửa kể từ thời kỳ “đền ơn” hai ông anh, hễ khai thác được mẻ nào là chuyển ngay đi “trả lễ” mẻ ấy và trong một thời gian quá dài. Rồi đến thời kỳ buôn bán trao tay ngay trên biển, tiền chui vào túi những quan chức cỡ bự từ trong ngành và đâu khỏi việc tiến cúng bề trên. Nghĩa là người cộng sản hoặc đang tưởng mình sống đến thiên niên vạn đại để tiêu xài cái đất nước “rừng vàng biển bạc” này mà chẳng cần lấy một mảy may dự trữ (như nước Venezuela hiện đang trở thành mạt rệp); hoặc chính họ đã thật sự linh cảm trước cái chết của họ nên được ngày nào hãy cứ vung vinh đi. Thì bây giờ hạn kỳ của Thần Chết đã đến, họ đang cố làm đủ cách như kêu gọi bán công trái nhằm vét nốt số vàng và đô la trong dân, xoay xở kêu gọi thêm tài trợ ODA của một số nước còn chút hữu hảo, hoặc có tỉnh nọ vừa chủ trương bán sỉ luôn cả mớ đất công của tỉnh còn lại…, đó đều là những việc “ăn đong” cuối cùng.
Tất nhiên đất nước sẽ cùng phải chết với họ chứ có cái lòng yêu nước nào ở những con người chỉ có giai cấp tính và chuyên dùng bạo lực ấy để họ đành tự chết mà nhường cho nước sống đâu. Nhưng điều mà hầu như chúng ta sợ nhất, không ai không thấp thỏm, ấy là họ sẽ đang tâm bán luôn cả mớ cái lãnh thổ nghìn đời này cho “ông anh” Tàu. Dám thế lắm, bởi vì xem ra mọi sự chuẩn bị đã đâu vào đấy cả rồi và có nhiều hiện tượng có vẻ như là những báo hiệu rục rịch. Hơn nữa, nhập vào ông anh thì ít ra cũng còn được ngo ngoe trên đầu trên cổ dân đen thêm một ít lâu nữa với cái tư cách “đuôi trâu”. Ai bảo cha ông ta, oanh liệt là thế, lại thốt ra những lời nói gở vẽ đường cho hươu chạy, với câu tục ngữ truyền đời truyền kiếp, nay trở thành bí quyết cho đám con cháu bất lương và thật ngu đần: Thà làm đuôi trâu hơn làm đầu gà.
Bauxite Việt Nam
Giàn khai thác của PetroVietnam tại mỏ Bạch Hổ. Hình minh họa. (Ảnh: PVN)
Vào mùa xuân năm 2018 đã xảy đến thêm một nguy cơ mà rất có thể sẽ trở thành nỗi nguy biến cho chính thể độc đảng ở Việt Nam: “deadline” thực sự cho trữ lượng dầu khai thác ở Việt Nam chỉ còn khoảng 3 năm nữa, tức đến năm 2021 – trùng với kỳ đại hội đảng lần thứ 13, nếu còn có đại hội này.
2025 hết dầu đang khai thác!
Và khi mùa xuân ủ rũ của năm 2019 sắp nhoài đến, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã phải lần đầu tiên thừa nhận một sự thật mà bấy lâu nay tập đoàn này và đảng chỉ muốn che giấu càng nhiều càng tốt: sản lượng dầu tại rất nhiều giếng đang suy giảm tự nhiên do khai thác đã quá lâu. Cộng vào đó là trữ lượng gia tăng quá thấp khiến từ nay đến năm 2025, sản lượng khai thác dầu sẽ giảm đều đặn mỗi năm 10% – tương đương với hơn 2 triệu tấn.
Mức gia giảm đã được lên kế hoạch gia tốc lùi một cách chắc chắn trên có ý nghĩa gì?
‘Suy giảm tự nhiên’ chỉ là một cách nói, hoặc chính xác hơn là một lối phủ nhận trách nhiệm đối với nạn khai thác phá vỡ kế hoạch trong nhiều năm trước.
Vào năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn. Nhưng với đà ‘suy giảm tự nhiên’ và với mức giảm bắt buộc hơn 2 triệu tấn/năm, đến năm 2025 sản lượng khai thác quy dầu sẽ cao lắm là 10 triệu tấn/năm. Còn nếu trong giai đoạn 2019 – 2015 mà PVN phải chịu sức ép quá mạnh từ Chính phủ và Bộ Chính trị đảng để phải giữ nguyên hoặc thậm chí gia tăng sản lượng khai thác dầu khí nhằm bù đắp cho một nền ngân sách mau chóng cạn kiệt, đặc biệt là gần như cạn hoàn toàn các nguồn ngoại tệ dùng để trả nợ nước ngoài và chi xài cho công tác ăn tiêu trong đảng, đến năm 2025 PVN sẽ có thể chẳng còn dầu để khai thác nữa.
Những thông tin trên là chuỗi tiếp nối logic với một thông tin từ ông Từ Thành Nghĩa – Tổng giám đốc Vietsovpetro – vào đầu tháng 2/2018 về “Móng mỏ Bạch Hổ còn quanh quẩn 10 triệu tấn, tối đa chỉ khai thác được 4-5 năm nữa thôi”, tại Hội nghị tổng kết năm 2017 của PVN.
Điều đó có nghĩa là ngay cả mỏ Bạch Hổ – cung cấp sản lượng lớn nhất, chiếm hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay – đã vào giai đoạn suy kiệt.
Đó là chưa kể đến tình trạng sản lượng của một số mỏ dầu khí giảm dần và không còn mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư. Trong thời gian qua một số lô hợp đồng đã phải trả lại cho PVN do không còn hiệu quả kinh tế, như Lô 46/13 – mỏ Sông Đốc và Lô 01&02/97 mỏ Thăng Long, Đông Đô.
Vào năm 2012 hoặc 2022 khi mỏ Bạch Hổ trở thành ‘mỏ chết’, PVN sẽ phải dựa hoàn toàn vào 40% sản lượng còn lại, với điều kiện trữ lượng của những mỏ dầu còn lại vẫn còn mà không suy kiệt hẳn như Bạch Hổ.
Trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác!
Những năm tới sẽ là một thách thức khủng khiếp: làm sao đảng và PVN tìm ra được nguồn trữ lượng dầu khí mới ở Biển Đông để thay thế cho những mỏ sắp biến thành dĩ vãng và để ngân sách của đảng lẫn đảng khỏi chết theo?
Ngay trước mắt là một mất cân đối quá lớn đối với ‘khoa học khai thác dầu khí’: năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn, nhưng phần tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng chỉ là 4 triệu tấn, tức trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác. Nếu tình trạng mất cân đối giữa tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng và khai thác vẫn tiếp diễn như hiện nay thì chỉ vài năm nữa, sản lượng khai thác dầu khí của PVN sẽ chỉ còn 1/3 sản lượng so với hiện thời.
Vào đầu năm 2017, một báo cáo của PVN đã thừa nhận rằng gia tăng trữ lượng dầu khí năm 2017 đạt thấp hơn nhiều so với mục tiêu chiến lược đề ra: mục tiêu đề ra trong nước là 20-30 triệu tấn/năm và ở nước ngoài là 8-12 triệu tấn/năm (tổng cộng là 28-42 triệu tấn/năm) nhưng trong hai năm 2016 và 2017 PVN đều không hoàn thành khi đạt thấp hơn nhiều (năm 2016 đạt 16,66 triệu tấn quy dầu và năm 2017 đạt 4,0 triệu tấn quy dầu). Hầu hết các mỏ đều đã khai thác trong thời gian dài và đang trong giai đoạn cuối dẫn tới suy giảm sản lượng tự nhiên hàng năm từ 15% tới trên 30%.
2017 cũng là năm gia tăng trữ lượng dầu khí thấp nhất từ trước đến nay, chỉ đạt 4 triệu tấn dầu, thấp nhất lịch sử. Một quan chức của PVN là Tổng giám đốc Nguyễn Vũ Trường Sơn phải thừa nhận: “trước đây hàng năm, PVN khoan 30-40 giếng thăm dò, chi phí tốn từ 2-2,5 tỷ USD, gia tăng được 35-40 triệu tấn quy dầu. Thế nhưng, từ 2015 trở lại đây, đầu tư của ta và nước ngoài chỉ đâu đó 400-500 triệu USD cho tìm kiếm thăm dò, giảm 5 lần so với trước”.
Thông tin trên rất dễ khiến giới chóp bu Việt Nam mất ngủ, cho dù họ đã thừa biết thực trạng “thiếu ăn” đó, khi hầu hết các mỏ dầu ở Việt Nam đều đã khai thác quá độ hoặc vô độ trong thời gian dài và hiện đang trong giai đoạn cuối dẫn tới ‘suy giảm sản lượng tự nhiên’.
Phá sản ‘tầm nhìn đến năm 2030’
Hiện thực cùng tương lai cạn dầu hết tiền trên cũng khiến phá sản luôn “tầm nhìn đến năm 2030” của ngành dầu khí Việt Nam, đặc biệt dưới thời ‘đồng chí ba X’ – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Vào năm 2010 – 2011, PVN và chính phủ của ông Dũng đã hết sức lạc quan khi ước tính trữ lượng dầu của Việt Nam đủ để khai thác đến năm 2030, tức hàm ý chế độ hỗn tạp giữa danh nghĩa cộng sản và thực chất chủ nghĩa tư bản đỏ ở Việt Nam hoàn toàn có thể kéo dài sự tồn tại của nó đến ít nhất năm 2030.
Nhưng chỉ vài năm sau đó khi tốc độ khai thác được đẩy mạnh gấp đôi, “deadline” cho trữ lượng dầu đã được chính Thủ tướng Dũng và các bộ ngành liên quan gia giảm đến năm 2025. Tuổi thọ của chế độ cũng bởi thế đã được rút ngắn 5 năm.
Tính bất xứng đã thể hiện một cách thật ngọt ngào: nếu vào thời Nguyễn Tấn Dũng, Tập đoàn PVN đã lao vào khai thác dầu khí vô tội vạ và có lúc đóng góp tới gần 10% thu ngân sách, thì đến nay hàng năm số thu ngân sách từ PVN chỉ chưa đầy 100 ngàn tỷ đồng/năm và chỉ chiếm khoảng 6% tổng thu ngân sách.
Còn bây giờ thì trừ đảng, chẳng còn ai nói đến ‘năm 2030’ nữa. Thậm chí ‘năm 2025’ cũng chỉ là một ước đoán có phần lạc quan tếu.
Trong hai năm trở lại đây, “deadline” mới đã được thiết lập: trữ lượng dầu chỉ còn đủ để khai thác trong 4-5 năm.
Nhưng “deadline” trên cũng chỉ mang ý nghĩa hết sức tương đối. 3 năm khai thác tối đa là khoảng thời gian có thể dễ hình dung hơn. Tức PVN chỉ còn có thể khai thác tương đối thoải mái trong ba năm 2019, 2020 và ‘chào mừng đại hội đảng 13’ vào năm 2021, nếu quả thực còn có đại hội này.
Nhưng sau đó, không có gì bảo đảm cho ‘nguồn thu dầu khí bền vững’ đối với ngân sách đảng.
‘Thọ’ đến năm nào?
Với tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm ra nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là vào năm 2021, ngân sách chế độ sẽ mất hẳn số thu 70.000 – 80.000 tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ ‘kiến tạo’ một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Tương lai đen tối trên đang hiển hiện trong bối cảnh hiện thời các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và cả nguồn kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức đỉnh 13,5 tỷ USD vào năm 2015…
Cùng với ba tử huyệt nợ công quốc gia, nợ xấu ngân hàng và thâm thủng ngân sách đang lộ ra ngày càng rõ, triển vọng trữ lượng dầu khí cạn kiệt chỉ trong ít năm nữa hoàn toàn xứng đáng bồi thêm một điểm chết nữa mà có thể rút ngắn đáng kể tuổi thọ của chế độ cầm quyền tại Việt Nam trước thời điểm năm 2025.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN