Vì sao người dân Việt chỉ phản đối Trung Quốc?

Phạm Chí Dũng

Chúng tôi đăng cặp bài này (bài dưới của BBC) với dụng ý không giấu giếm, để mời độc giả thử so “ý Đảng” với “lòng Dân” ở Việt Nam?

Bauxite Việt Nam

clip_image002

Người dân Việt Nam biểu tình chống dự luật Đặc Khu Kinh Tế cho Trung Cộng thuê 99 năm vào ngày 10 Tháng Sáu, 2018. (Hình: Kao Nguyễn/AFP/Getty Images)

Tom Fawthrop đã làm việc với tư cách một nhà báo ở Cambodia trong 8 năm, Đông Timor, Philippines và Thái Lan trong khoảng thời gian 30 năm, và thực hiện một loạt các phim tài liệu về vùng Mekong và xuất bản một cuốn sách về Cambodia.

Có lần Tom Fawthrop hỏi tôi: “Việt Nam có một lịch sử lâu dài về cuộc đấu tranh giành độc lập từ tay Trung Quốc, thực dân Pháp và Hoa Kỳ. Bạn có thấy những phản đối mạnh mẽ trong những năm gần đây về vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc tại Việt Nam, vai trò của nó trong các đảo Biển Đông và kiểm soát sông Mekong như là một sự liên tục với quá khứ? Hay là hiện tượng hoàn toàn khác với niềm đam mê định kỳ về độc lập chống lại bất kỳ kẻ xâm lược nước ngoài nào hay các mối đe dọa hiện tại mà Trung Quốc đặt ra cho sự độc lập của Việt Nam?”

(Vietnam has a long history of independence struggles- China, French colonialism and the US war. Do you see the strong protests in recent years over China”s increasing role in Vietnam, its role in East Sea islands and control of the Mekong as a continuity with the past? Or is radically different phenomenon to the recurring passion for independence against any foreign invader or the current threats posed by China to Vietnamese independence?)

Một câu hỏi khó và ẩn chứa cả một chiều dài lẫn chiều sâu lịch sử.

Thực ra, để đánh giá một cách khách quan và tương đối chính xác về cái nhìn và quan niệm của người dân Việt Nam đối với Trung Quốc và Mỹ, có thể dựa vào kết quả khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew của Mỹ vào Tháng Sáu năm 2015: khảo sát quan điểm toàn cầu về Mỹ, Trung Quốc. Theo đó, có đến 78% người Việt Nam được khảo sát cho biết họ có cái nhìn tích cực về nước Mỹ. Nhưng lại có đến 74% người Việt Nam có quan điểm tiêu cực về Trung Quốc, trong khi chỉ 19% người Việt Nam có quan điểm tích cực về Trung Quốc.

Cần chú ý rằng từ trước đến nay không có một cơ quan quản lý hay cơ quan nghiên cứu nào của chính quyền Việt Nam công bố kết quả khảo sát nào về người Việt Nam “thích Trung Quốc” và “không thích Trung Quốc,” cũng không có khảo sát nào so sánh thái độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc và Mỹ. Cũng từ trước đến nay, đã không có một tổ chức khảo sát độc lập (phi nhà nước) nào ở Việt Nam được phép nghiên cứu về vấn đề này hay công bố kết quả khảo sát về vấn đề bị chính quyền xem là rất nhạy cảm chính trị này.

Trung Quốc từng có lịch sử xâm lược Việt Nam, và Mỹ cũng từng có lịch sử can dự vào chiến tranh Việt Nam. Nhưng kết quả khảo sát của Pew có thể là bằng chứng rõ nhất cho thấy một quy luật về quan điểm chính trị – xã hội của người Việt Nam đối với nước ngoài: nước nào xâm lược hoặc đô hộ Việt Nam càng lâu thì càng bị người Việt Nam căm ghét hoặc căm thù.

Lịch sử xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam là khoảng 1000 năm, trong khi lịch sử can dự chiến tranh của Mỹ vào Việt Nam là chưa đầy 30 năm.

Trong các chuyến thăm của các tổng thống Mỹ Clinton và Obama đến thủ đô Hà Nội của Việt Nam vào các năm 2001 và 2016, hình ảnh hàng chục ngàn người dân Việt Nam đứng chật kín hai bên đường với biểu ngữ ủng hộ và thân thiện, cười rất tươi và reo hò và vẫy tay chào đón cho thấy phần lớn người Việt Nam đã quên lãng quá khứ chiến tranh và trở nên thân thiện với Mỹ, đặc biệt khi đại đa số người Việt Nam đang khao khát một chế độ dân chủ, hoặc tối thiểu là một chế độ cải cách để thay thế cho chế độ độc tài bảo thủ trong nước.

Còn các chuyến thăm Việt Nam của các tổng bí thư Trung Quốc như Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình đều nhận được sự đón tiếp rất lạnh nhạt từ người dân Việt Nam, trái ngược hoàn toàn với cảnh người Việt Nam đón tiếp các tổng thống Mỹ.

Với Pháp có lịch sử đô hộ Việt Nam 100 năm, và Nhật Bản có một ít năm xâm lược Việt Nam, nhưng cũng nhận được thái độ thân thiện của người dân Việt Nam, đặc biệt là sự đồng cảm với văn hóa Pháp.

Những dẫn chứng trên cho thấy người dân Việt Nam không phải sẵn sàng xuống đường biểu tình phản đối bất cứ kẻ thù quá khứ nào như một truyền thống, một thói quen hay một niềm đam mê “bài ngoại,” mà họ phản đối một cách có chọn lọc.

Từ năm 1975 đến nay, đã chưa từng diễn ra cuộc biểu tình nào của người dân Việt Nam chống Mỹ, chống Pháp hay chống Nhật Bản, mà hầu hết chỉ chống Trung Quốc.

Điều hiển nhiên là phần lớn người dân Việt Nam, trừ những quan chức Việt Nam bị xem là “cõng rắn cắn gà nhà” khi khiến Việt Nam bị phụ thuộc nặng nề vào Bắc Kinh về kinh tế và chính trị, đã phân biệt rất rõ là Mỹ, Pháp, Nhật Bản đã mang lại cho Việt Nam những lợi ích kinh tế và giá trị văn hóa nào, trong khi Trung Quốc đã và đang biến Việt Nam thành một bãi rác thải công nghệ khổng lồ, một thị trường nhập siêu đến khoảng $50 tỷ hàng năm từ Trung Quốc, một nền chính trị bị Trung Quốc chi phối, thao túng về đường lối đối ngoại, đối nội và cả về nhân sự chủ chốt, và Trung Quốc ngày càng lộ rõ ý đồ cùng hành động độc chiếm Biển Đông, biến phần biển thuộc lãnh hải Việt Nam thành “ao nhà” của họ.

Các cuộc phản đối và biểu tình chống Trung Quốc của người dân Việt Nam đã trở nên quy mô về số lượng, có chiều sâu về kỹ thuật và gia tăng phạm vi ở Việt Nam từ năm 2011. Các cuộc biểu tình này được khởi xướng từ giới đấu tranh dân chủ và nhân quyền ở Hà Nội, Sài Gòn và đã lan nhanh đến các tầng lớp dân chúng.

Vào năm 2014, cuộc biểu tình ở Sài Gòn phản đối giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm Biển Đông đã lần đầu tiên lên tới 10,000 – 12,000 người.

Vào năm 2018, cuộc biểu tình ở Sài Gòn phản đối Luật Đặc khu đã lần đầu tiên lên tới hàng trăm ngàn người và lan rộng trên 50% tỉnh và thành phố ở Việt Nam.

Trong trường hợp giàn khoan Hải Dương 981 (năm 2014) và Luật Đặc Khu (năm 2018), cùng với mạng xã hội phát triển mạnh, hệ thống báo chí nhà nước (hơn 800 tờ) cũng tham gia vào việc lên án Trung Quốc, ảnh hưởng của truyền thông đã tác động rộng rãi đến dân chúng và tạo nên những cuộc biểu tình khổng lồ.

Không biết vô tình hay hữu ý, đúng vào ngày quốc khánh 2 tháng 9 năm 2018 và gần như ngay sau khi xuất hiện thông tư “Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc” của Ngân Hàng Nhà Nước, trang báo điện tử VietNamNet chợt nổi lên một bài lược sử với tiêu đề: “Kết cục bi thảm của những kẻ bán nước nhà Trần” (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/trac-nghiem/ket-cuc-bi-tham-cua-nhung-ke-ban-nuoc-nha-tran-va-bai-hoc-cho-hau-the-474526.html).

Tuy nhiên, có một thực tế đáng ngao ngán là dù mạng xã hội ngày càng chiếm vai trò quan trọng và có đến 60 – 70% người Việt Nam dùng mạng xã hội, song tỷ lệ người Việt Nam quan tâm đến các vấn đề chính trị, dân chủ và nhân quyền lại khá thấp, và họ thường đọc các nội dung chính trị trên báo nhà nước chứ không phải trên mạng xã hội là nơi họ chủ yếu dùng để giải trí. Vậy nên bài học cần rút ra là: nếu nhiều tờ báo nhà nước đồng thuận với mạng xã hội trong việc đưa tin bài về phản đối Trung Quốc, chắc chắn sẽ có nhiều người dân quan tâm và tự tin xuống đường biểu tình hơn.

Nhưng cho đến nay, toàn bộ hơn 800 tờ báo nhà nước vẫn bị siết cứng về tư tưởng và nội dung bởi Ban Tuyên Giáo Trung Ương và Bộ Thông Tin và Truyền Thông. Tất cả những gì mà một ít tờ báo nhà nước còn chất phản biện và còn dám lên tiếng cũng chỉ giống như một hòn đá nhỏ ném xuống cái ao tù bị đùn lên mặt nước hàng đống bọt ô nhiễm hôi thối.

P.C.D.

Tác giả gửi BVN

TBT Trọng: ‘Quan hệ Việt-Trung đang

tốt đẹp nhất’

BBC

clip_image002[5]

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp ông Triệu Lạc Tế chiều 27/09 tại Hà Nội. Nguồn: Tân Hoa Xã

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong buổi tiếp Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc chiều 27/9 nói rằng quan hệ Việt – Trung hiện đang ở thời điểm tốt đẹp nhất trong lịch sử (Tân Hoa xã tường thuật).

Tổng Bí thư Trọng cũng nói với ông Triệu Lạc Tế, người hiện đang giữ chức Trưởng ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, rằng các thành tựu mà Bắc Kinh đạt được không chỉ đem lại lợi ích cho nhân dân Trung Quốc mà còn tạo động lực cho sự phát triển của Việt Nam và nâng cao mối quan hệ song phương giữa hai quốc gia.

Báo chí Việt Nam thì nói nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá quan hệ hai đảng, hai nước trong thời gian qua “đã có nhiều tiến triển tích cực” (theo VTV).

Ông Triệu nói chuyến đi của ông nhằm triển khai thực hiện những đồng thuận quan trọng mà Tổng Bí thư đảng hai nước đã đạt được, bên cạnh các vấn đề khác, nhằm “nâng tầm quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Trung – Việt lên một tầm cao hơn”.

Ông Triệu, sinh năm 1957, là một trong năm gương mặt mới được đưa vào Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan chính trị gồm bảy thành viên quyền lực nhất Trung Quốc, từ 10/2017, làm việc trực tiếp dưới quyền Chủ tịch Tập Cận Bình.

Chuyến thăm của nhân vật cao cấp trong Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra vào thời điểm ban lãnh đạo Việt Nam đang cân nhắc chọn phương án nhân sự cho chức Chủ tịch nước sau khi Đại tướng Trần Đại Quang qua đời, trong lúc có những ý kiến nói đây là cơ hội để nhất thể hoá hai chức Tổng Bí thư và Chủ tịch nước, mô hình đã được áp dụng tại Trung Quốc từ lâu nay.

Ông Triệu Lạc Tế nhận sự ủy quyền của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, đã tới viếng cố Chủ tịch Trần Đại Quang hôm 26/9.

Ông Triệu trong chuyến đi cũng gặp gỡ các quan chức cao cấp khác của nước chủ nhà, trong đó có Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Trần Cẩm Tú.

‘Những chuyến thăm lịch sử’

Trong cuộc gặp Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Triệu nói rằng năm nay đánh dấu 10 năm thiết lập quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung, và ông nhắc tới các “chuyến thăm lịch sử” của Tổng Bí thư hai đảng hồi 2015 và 2017, là những thời điểm mà hai bên “đạt được sự nhất trí quan trọng”.

Hồi 11/2017, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có chuyến thăm chính thức tới Việt Nam sau khi dự hội nghị thượng đỉnh APEC tại Đà Nẵng. Hai bên ra tuyên bố chung nói sẽ “kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, không mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.

Trước đó, hồi 1/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có chuyến đi đầu tiên tới Trung Quốc sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12.

Sau chuyến thăm này, hai bên ra thông cáo chung theo đó xác định hai nước “đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung”, và khẳng định quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp “có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai nước”.

Bản thông cáo chung khi đó khẳng định quan điểm hai bên là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trong tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Chuyến thăm trước đó của ông Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc là tháng 4/2015, gần một năm sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan Hải dương 981 trên vùng biển có tranh chấp, dẫn đến nhiều cuộc biểu tình phản đối mạnh mẽ của người dân Việt Nam trên toàn quốc.

Chuyến đi Việt Nam của Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc Triệu Lạc Tế để dự quốc tang Chủ tịch Trần Đại Quang và bàn chuyện quan hệ song phương diễn ra vào lúc tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến dồn dập.

Trung Quốc vừa tiến hành diễn tập bắn đạn thật trên Biển Đông, ngay sau khi Mỹ đưa máy bay ném bom B-52 bay qua vùng biển này.

Tin cho hay mới đây nhất, hôm Chủ nhật 30/09, một khu trục hạm của Hoa Kỳ đã áp sát phạm vi 12 hải lý gần Bãi Gaven và Bãi Gạc Ma thuộc Quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát từ 1988 và tiến hành bồi đắp, xây cất cơ sở kiên cố trên đó.

Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-45698260

This entry was posted in Ghét Tàu yêu Mỹ. Bookmark the permalink.