(Wang Huning’s Neo-Authoritarian Dream)
Jude Blanchette
Nguyễn Quang A dịch
Cuối tháng Bảy 1994, Vương Hỗ Ninh đã đến gần sự kết thúc một sự nghiệp sang chói – và tương đối ngắn – như một nhà khoa học chính trị tại Đại học Phúc Đán Thượng Hải. Mùa hè đó, ông đã ở khu nghỉ ven biển, Bắc Đới Hà, 300 km phía Đông Bắc Kinh, để cùng giới tinh hoa lãnh đạo Trung Quốc cho cuộc họp kín bên biển hàng năm của họ.
Theo các mục tạp chí của Vương từ cuộc đi đó, chủ đề quan chức tham nhũng đã làm học giả 39 tuổi này bận tâm, đặc biệt là cái ông gọi là “siêu-tham nhũng”, một hiện tượng đưa ra một thách thức rõ rệt đối với ĐCSTQ (Đảng Cộng sản Trung Quốc). “Tham nhũng cấp cao là hiếm”, ông đã viết, “nhưng nếu nó xảy ra, ảnh hưởng của nó vượt xa tham nhũng vặt, và như thế nó phải là tiêu điểm của công việc chống tham nhũng”.
Với đám cháy kép lớn của sự đàn áp thẳng tay tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 rõ rệt không có sự nghi ngờ nào trong đầu óc ông, điều suy nghĩ này về bản chất độc hại của tham nhũng có lẽ đã không làm ngạc nhiên. Vương, tuy vậy, đã tập trung vào chủ đề ở một mức sâu hơn đa số rất nhiều. “Sự tin cậy vào chính quyền là gì?” ông đã viết trong nhật ký của mình chỉ vài tháng trước chuyến đi của ông tới Bắc Đới Hà. “Sự tin cậy vào chính quyền có nghĩa rằng một chính quyền có thể thực hiện lời hứa của nó để cai quản nhân dân”, ông đã viết. Kết luận của ông đã rõ ràng – không có một nền tảng của sự tin cậy, hệ thống chính trị của Trung Quốc vẫn dễ bị tổn thương đối với cùng các lực của sự thay đổi mà đã xé tan đế chế Soviet.
Bây giờ, hơn hai mươi năm sau, Vương Hỗ Ninh ở nhóm cốt lõi của bộ máy ra quyết định mà, trong con mắt nhiều người, cuối cùng đang xoá bỏ sự tham nhũng cấp cao, và bằng cách đó giữ gìn sự tin cậy trong Nhà nước-đảng. Kể từ khi được Tổng bí thư khi đó, Giang Trạch Dân, triệu về Bắc Kinh trong năm 1995, trên thực tế chấm dứt sự nghiệp học thuật của mình, Vương đã trở thành “cây bút” của ĐCSTQ, lực thúc đẩy đằng sau các khẩu hiệu ý thức hệ chính của các lãnh đạo chóp bu của Trung Quốc, từ “Ba Đại diện” của Giang Trạch Dân, đến lý luận “Phát triển Khoa học” của Hồ Cẩm Đào, và “Giấc mộng Trung Hoa” gần đây của Tập Cận Bình. Với tư cách người đứng đầu think tank cấp cao nhất của ĐCSTQ, Văn phòng Nghiên cứu Chính sách Trung ương, ông cũng đã trở thành một trong những bạn tâm giao thân cận nhất của Tổng bí thư Tập Cận Bình.
Trước khi chuyển về thủ đô, thành tích học thuật của Vương Hỗ Ninh đầy phong phú. Ông đã là tác giả của chí ít một tá sách, và đã công bố hơn 50 bài báo học thuật. Kể từ 1995, và việc ông chuyển đến Bắc Kinh, con số này đã sụt xuống gần zero, một nạn nhân của “hộp đen” làm cho hoạt động chính trị Trung Quốc là một sự quay cuồng của sự bí ẩn và tin đồn đối với những người ngoài chúng ta. Trong khi chúng ta không biết nhiều về cuộc tranh luận xảy ra bên trong các bức tường Trung Nam Hải, may mắn thay, chúng ta có dấu vết trên giấy do Vương Hỗ Ninh để lại trước khi ông về thủ đô.
Không chú ý tới các triển vọng sự nghiệp tương lai của Vương Hỗ Ninh, một thứ là rõ: nếu chúng ta muốn hiểu phong trào chính trị siêu-bảo thủ của Trung Quốc hiện nay, chúng ta cần hiểu lý luận của Vương Hỗ Ninh về “chủ nghĩa tân uy quyền [cũng được gọi là chủ nghĩa độc đoán mới] – neo-authoritarianism”, mà ông đã giúp để phát triển trong các năm trước khi ông biến mất vào trong Đảng.
Sinh ra ở Thượng Hải năm 1955, sức khoẻ yếu phần lớn đã giữ ông cô lập khỏi cao trào Chủ nghĩa Mao của Cách mạng Văn hoá (1966-1976), mà, trong một phỏng vấn, Vương lên án như “một tai hoạ chính trị chưa từng có”. Là một trong những sinh viên đầu tiên tận dụng được các đại học mở cửa lại sau cái chết của Mao Trạch Đông trong 1976, Vương đã vào khoa chính trị quốc tế của Đại học Phúc Đán trong 1978, tốt nghiệp sau ba năm với một bằng Thạc sĩ. Ông đã ở Phúc Đán 14 năm tiếp theo, làm tác giả các sách và các bài báo về chính trị học so sánh và về cai quản (governance).
Vào giữa các năm 1980, Vương bắt đầu tập trung vào mối quan hệ giữa chính phủ trung ương ở Bắc Kinh và các chính quyền địa phương mà trên danh nghĩa chúng tuân theo nó. Một cách cụ thể, ông đã quan tâm đến các chính sách “cải cách và mở cửa” đã đóng góp thế nào cho sự khoét rỗng sự kiểm soát của Bắc Kinh đối với các vùng lãnh thổ trải rộng bao la của nó.
Kể từ cái chết của Mao Trạch Đông trong 1976 và sự nổi lên của Đặng Tiểu Bình trong 1978, sự tự trị tương đối của các nhà chức trách địa phương đã tăng lên cùng với sự dỡ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá. Tính linh hoạt và tính dễ dãi mới được tìm thấy đã giúp thúc đẩy một sự tăng lên nhanh chóng về mức sống khi nông dân rời khỏi nền kinh tế tập thể vào canh tác trang trại do cá nhân quản lý và nền kinh tế thị trường non nớt. Tuy nhiên từ viễn cảnh của Bắc Kinh, sự phi tập trung hoá kinh tế và chính trị đã có những khuyết điểm. Khi sự kiểm soát được nới lỏng, thiên hướng của các chính quyền địa phương để bảo vệ các lợi ích của chúng làm tổn hại đến chính sách được Bắc Kinh-ra lệnh đã tăng lên, một hiện tượng bị các quan lại Đảng chế giễu như “chính sách bên trên vấp phải các biện pháp đối phó bên dưới”.
Động học này đã được thâu tóm trong một phân tích năm 1984 của CIA: “Mặc dù Đặng [Tiểu Bình] và các đồng minh của ông đã đặt những người ủng hộ vào các vị trí then chốt ở trung ương và địa phương, các cải cách chính trị và kinh tế của họ vẫn gây tranh cãi và được thực hiện một cách thất thường. Trong phân tích của Bắc Kinh, nơi chống cự chính là các mức hành chính cấp trung và thấp. Thông qua các mối quan hệ chính trị và nhiệm kỳ dài, không bị xáo trộn trong chức vụ, nhiều quan chức địa phương được miễn dịch với kỷ luật trung ương; vì thế, họ thường coi thường Bắc Kinh mà không sợ sự trừng phạt. Trừ phi các quan chức địa phương hoàn toàn chắc chắn rằng ban lãnh đạo quốc gia là vô cùng thống nhất, họ thường phản ứng với các sáng kiến trung ương theo những cách phù hợp với các lợi ích cá nhân riêng của họ”.
Quân đội Nhân dân (PLA), được dùng như một cái gai kiên định trong phe của các nhà cải cách suốt các năm 1980, đã cũng không nhiệt tình về các tác động phụ của các cải cách kinh tế. Khi các cơ hội ở miền quê tăng lên, nhiều bộ đội tại ngũ đã muốn về quê để giúp gia đình họ làm ruộng. Tương tự, tuyển lính mới đã trở nên khó khăn hơn khi các cơ hội kinh tế mở rộng. Các hộ gia đình có con phục vụ trong quân đội cũng bị thiệt thòi so với các hộ không có ai tại ngũ, và như thế áp lực lên những người lính để họ bỏ PLA trả lương thấp đã gia tăng. Như một chính trị viên PLA đã lưu ý trong năm 1980, “chính sách nông thôn mới đã gây ra sự kinh hoàng trong quân ngũ”.
Khi ông theo dõi sự teo uy quyền của Bắc Kinh tăng lên cùng với các cải cách, Vương Hỗ Ninh lo rằng nếu sự tản quyền tiếp tục nhanh chóng, nó sẽ dẫn đến một sự quay lại một “nền kinh tế phong kiến”, với chủ nghĩa địa phương và sự vô chính phủ thuộc loại mà đã là điển hình của “thời quân phiệt” của các năm 1920 và 30. Trong một bài báo tháng Tám 1988, ông đã cảnh báo về Trung Quốc đang bị chia tách thành “30 tước công, với khoảng 2.000 lãnh địa của một ông hoàng kình địch nhau” vì sự tản quyền tiếp sau cải cách. Trong khi cải cách nền kinh tế không nghi ngờ gì là cần thiết, ông lập luận, nó đã tạo ra một thế lưỡng nan cho các nhà cai trị Trung Quốc. Theo Vương, “Nếu quyền lực không được chuyển cho mức thấp hơn, thì sẽ là không thể để chấn hưng nền kinh tế và đưa nó theo hướng hiện đại hoá; nhưng việc chuyển quyền cho mức thấp hơn mang theo nó những khó khăn to lớn cho việc điều tiết và kiểm soát của hệ thống chính trị”.
Đấy không phải là một hiện tượng mới, tất nhiên. Như một châm ngôn thời nhà Nguyên (thế kỷ thứ 13-14) lưu ý “Hoàng đế thì xa như trời cao”. Nhưng sau sự mất trật tự và sự hỗn loạn của Cách mạng Văn hoá, nhiều người ở Trung Quốc, kể cả Vương Hỗ Ninh, đã quyết tâm để cuối cùng kéo Hoàng đế đến gần hơn nhiều.
Điều này đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm cho ĐCSTQ khi nó lèo lái thời kỳ sau-Mao của nó: làm sao để cân bằng sự cởi mở (của các ý tưởng, các hàng hoá, và nhân dân) với sự kiểm soát chính trị tất yếu cần để đảm bảo sự ổn định và, quan trọng nhất, sự độc quyền quyền lực của ĐCSTQ. Vương đã quyết tâm để tìm ra một sự cân bằng, và trong một loạt bài báo trong các tạp chí học thuật ít người đọc và các báo bình dân, ông đã bắt đầu gỡ mối một khung khổ cai quản mới, mà đã cho phép tính linh hoạt cần thiết cho sáng kiến từ dưới lên với sự bắt buộc đối với sự giám sát và can thiệp cần thiết của một chính quyền trung ương để đảm bảo sự ổn định kinh tế và chính trị gắn với quyền uy và sự thống nhất chính trị.
Để bắt đầu, Vương lập luận, ta cần nhìn qua tâm tính thời cải cách về xem cuộc đấu tranh nguyên tắc như một cuộc giữa một bên là chính phủ và bên kia là thị trường (hay doanh nghiệp, xí nghiệp – 企业). Như ông đã nói trong một phỏng vấn năm 1995 với tạp chí Thăm dò và các Quan điểm Tự do (Thám sách dữ tranh minh – 探索与争鸣), bởi vì Trung ương đã bỏ rất nhiều sự can thiệp trược tiếp của nó vào công việc chính quyền địa phương và sự quản lý nền kinh tế, “mặc dù đã không có kế hoạch thực tế nào để mở rộng vai trò của các chính quyền địa phương, các hoạt động của chính quyền địa phương đã dẫn đến sự mở rộng de facto của các vai trò của chúng, và thậm chí ‘sự lạm phát vai trò’ địa phương”. Các chính quyền địa phương đã được trao quyền theo liền ngay sau sự rút lui của Bắc Kinh khỏi đời sống địa phương, một kết quả mà đã gây khó khăn hơn cho các nhà kế hoạch của chính phủ trung ương để đẩy chính sách mức quốc gia xuống hệ thống. Đấy đã không chỉ là vấn đề về thực hiện chính sách. “Sự thống nhất của ban lãnh đạo là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của bất cứ nước nào”, Vương đã lập luận trong cùng bài phỏng vấn, “Nơi không có uy quyền trung ương hay nơi uy quyền trung ương sa sút, quốc gia sẽ ở trong trạng thái bị chia cắt và hỗn loạn”.
Các bài viết trong các năm 1980 của Vương đã thiết lập nền tảng cho cái biết đến như “chủ nghĩa uy quyền mới: neo-authoritarianism” (Tân uy quyền chủ nghĩa – 新权威主义). Học thuyết cho rằng sự ổn định chính trị đã cung cấp cấu trúc cho sự phát triển kinh tế, và rằng các cân nhắc như dân chủ và tự do cá nhân sẽ đến muộn hơn, khi có các điều kiện thích hợp. Như Vương đã viết trong một bài báo năm 1993 có tựa đề, “Những yêu cầu chính trị cho nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” (Xã hội chủ nghĩa thị trường kinh tế đích chính trị yêu cầu – 社会主义市场经济的政治要求) “Sự hình thành các định chế dân chủ đòi hỏi sự tồn tại của các điều kiện lịch sử, xã hội, và văn hoá cụ thể. Cho đến khi các điều kiện này chin muồi, quyền lực chính trị phải được hướng tới sự phát triển của các điều kiện này”.
Những người khác đã gia nhập cùng Vương trong việc làm cho lý thuyết nhà nước-mạnh về cai quản này có da có thịt. Một trong những người chủ trương mạnh mẽ nhất đã là Wu Jiaxiang (Ngô Giá Tường [吴稼祥]), một kinh tế gia tại Văn Phòng Tổng hợp Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ. “Trước khi dân chủ và tự do ‘kết hôn’với nhau,” ông nhận xét, “có một ‘giai đoạn tán tỉnh’ giữa chế độ chuyên quyền và tự do. Nếu người ta nói dân chủ là đối tác trọn đời của tự do, thì chế độ chuyên quyền có thể được xem như ‘người yêu’ của tự do trước cuộc hôn nhân”. Viết trong Nhật báo Thanh niên Bắc Kinh, một cơ quan quan trọng của chủ nghĩa uy quyền mới, Liu Liqun, một nhà nghiên cứu tại một think tank Hội đồng Nhà nước, đã lập luận, “Không có trật tự xã hội, không thể có tự do và dân chủ. Nếu ta theo đuổi tự do và dân chủ mà không thiết lập trật tự đầu tiên, thì xã hội sẽ thụt lùi.” Thậm chí những trí thức cấp tiến hơn, như nhà nhân văn Marxist Su Shaozhi, đã biện hộ cho sự lãnh đạo mạnh mẽ, dù là sự lãnh đạo tạo không gian cho sự thử nghiệm trí tuệ. Như ông đã bảo Robert Sullivan trong 1986, “Cái Trung Quốc cần ngày nay là một nhà lãnh đạo mạnh khai phóng”.
Một nguồn hứng khởi cho các nhà uy quyền chủ nghĩa mới đã là các quốc gia Đông Á đang phát triển khác (Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, và Hong Kong), mà có vẻ đã chứng tỏ rằng sự hiện đại hoá kinh tế đã cần phải có (hay chí ít đã có thể cùng tồn tại với) một hệ thống chính trị có ý chí sắt đá. Chuyển sang một hệ thống như vậy đã không, các nhà tân uy quyền chủ nghĩa đã lập luận, là một sự quay lại quá khứ uy quyền [độc đoán] của Trung Quốc, mà đúng hơn đại diện cho một pha chuyển đổi, ở nơi một elite cai quản được khai sáng sẽ giám sát quá trình phát triển trong niềm tin rằng “quần chúng”, nếu được để tự họ, sẽ phá vỡ toàn bộ dự án. Nói cách khác sự hiện đại hoá cần sự ổn định và trật tự, nhưng tất cả đều nhân danh sự cai quản tốt (good governance) và, cuối cùng, hình thức nào đó của dân chủ.
Vào đầu hè 1989, chủ nghĩa tân uy quyền đã là một trong các xu hướng trí tuệ nóng bỏng nhất khi nhiều người đi đến nghi ngờ chiều hướng và tốc độ của các cải cách kinh tế. (Một thăm dò dư luận từ 1988 đã báo cáo rằng 60% người trả lời đã cảm thấy các cải cách đi “quá nhanh”, tăng từ 20% trong 1987) Người dân đã thèm khát các câu trả lời trong tháng Tư 1989 đến mức gần 2. 000 sinh viên, trí thức và cán bộ giảng dạy đã nhồi nhét vào một giảng đường tại Đại học Nhân dân ở Bắc Kinh cho một cuộc tranh luận bốn giờ về chủ đề này. Một tường thuật từ Hong Kong đã tường thuật rằng Triệu Tử Dương đã bảo Đặng Tiểu Bình tháng Ba 1989 rằng, “có một lý thuyết về chủ nghĩa uy quyền mới tại các nước ngoài, và bây giờ các giới lý luận trong nước đang thảo luận lý thuyết này”. Đặng đã đáp lại, “Đấy cũng là ý tưởng của tôi”.
Tuy vậy, sau sự đàn áp thẳng tay ngày 4 tháng Sáu và sự thanh trừng Triệu Tử Dương, chủ nghĩa uy quyền mới đã cần một sự đổi nhãn. Lời kêu gọi của nó cho một “chuyển đổi” sang một hình thức dân chủ hơn của hệ thống chính trị (dù được phác hoạ một cách mơ hồ) đã bị vứt bỏ, để lại chỉ lời kêu gọi cho leviathan (quái vật ~ nhà nước) mạnh và không bị phản đối dưới dạng của ĐCSTQ. Chủ nghĩa uy quyền mới như thế đã sống tiếp, đã tái sinh như “chủ nghĩa bảo thủ mới”, mà đã vẫn là lực lượng ý thức hệ chi phối trong các năm 1990. Một người thúc đẩy có ảnh hưởng của ý thức hệ mới này đã là thái tử Chen Yuan – Trần Nguyên [陈元] (con trai của Trần Vân – Chen Yun [陈云]), người đã kêu gọi ĐCSTQ để từ bỏ chủ nghĩa Marx (mà ít người đã có vẻ còn tin dẫu sao đi nữa) và thay vào đó neo tính chính đáng của nó vào các lực căn bản hơn – chủ nghĩa dân tộc và trật tự chính trị. “Chúng ta là Đảng Cộng sản”, Chen đã nói một lần, “và chúng ta sẽ quyết định chủ nghĩa cộng sản có nghĩa là gì”.
Di sản của chủ nghĩa uy quyền mới của Vương và em họ của nó, chủ nghĩa bảo thủ mới, tiếp tục sống ngày nay dưới triều Tập Cận bình. Nhìn vào 5 năm đầu của chính quyền Tập Cận Bình qua các lăng kính của chủ nghĩa uy quyền mới, và chúng ta thấy một chủ đề nhất quán: quắp lại quyền lực cho Bắc Kinh. Các doanh nghiệp sở hữu nhà nước, mà trong nhiều trường hợp tự chúng đã trở thành các đế chế kinh tế, đã được kéo lại vào vòng tay của Đảng. Các công ty tư nhân nhiều tham vọng, như Anbang và Fosun, bây giờ chú ý đến các lệnh của Bắc Kinh. Bây giờ cán bộ khắp đất nước bày tỏ sự tôn kính đối với “hạt nhân” của Uỷ ban Trung ương Đảng, Tập Cận Bình.
Vương Hỗ Ninh đã không viết bất cứ gì về chủ nghĩa uy quyền mới trong hơn hai mươi năm, thế nhưng, vì sao ông ta lại cần viết? Trật tự và sự ổn định đã chiến thắng, và trong khi trời có thể vẫn cao, còn bây giờ Hoàng đế là gần hơn bao giờ hết.
J.B.
20-10-2017
Người dịch gửi BVN. Các chữ Hán đặt trong [ ] do BVN chú thêm.