Cốt lõi của tự do là tự do kinh tế

Deirdre Nansen McCloskey

BVN trân trọng giới thiệu một bài viết của GS Deirdre Nansen McCloskey (Mỹ) do ông Phạm Nguyên Trường dịch, kèm theo là 2 bài báo “lề phải” để bạn đọc tiện so sánh, và nếu có thể thì chọn một từ phù hợp nhất để nói về thể chế kinh tế của Việt Nam hiện nay.

Bauxite Việt Nam

“Một quốc gia không trở nên giàu có bằng cách nhặt nhạnh bạc vàng như một đứa trẻ, mà bằng việc mỗi người dân đều có của cải tích lũy từ sự thịnh vượng về kinh tế của bản thân họ” – Adam Smith.

Từ cuối những năm 1800, khi chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tân tự do và tư tưởng tiến bộ vươn lên thì người ta thường có thái độ coi thường tự do kinh tế, cho rằng đấy là quan niệm thô lậu, không quan trọng, chỉ có những kẻ giàu có mới thực sự quan tâm mà thôi. Nhưng chủ nghĩa tự do nguyên thủy, trong những năm 1700, đã được Voltaire, Adam Smith, Tom Paine và Mary Wollstonecraft cổ vũ là tự do kinh tế cho cả người giàu lẫn người nghèo, và được hiểu là không can thiệp vào việc của người khác.

Năm 1776, đấy là một ý tưởng hay và mới. Và trong hai thế kỉ tiếp theo, tư tưởng tự do đã chứng tỏ nó có hiệu quả đáng kinh ngạc trong việc tạo ra người giàu có và tốt từ những người từng tuyệt vọng và nghèo đói. Đừng bao giờ quên điều đó.

Trong những năm 1800, hầu hết những người có tư tưởng, ví dụ như Henry David Thoreau, là những người theo phái tự do kinh tế. Khoảng năm 1840, Thoreau đã phát minh ra quy trình sản xuất cho nhà máy làm bút chì nhỏ của cha mình, giúp đưa Công ty Thoreau và Con lên vị trí nhà sản xuất bút chì hàng đầu ở Mỹ trong suốt 10 năm liền. Ông là doanh nhân, đồng thời là nhà bảo vệ môi trường và người bất đồng chính kiến. Khi việc nhập khẩu các loại bút chì chất lượng cao giành được thế thượng phong, Công ty Thoreau và Con không sản xuất bút chì nữa, chuyển sang sản xuất than chì dùng cho nghề in khắc. Đấy chính là tự do kinh tế.

Hành động đầu tiên của bạn là đề nghị cải thiện điều kiện sống của khách hàng, nhưng bạn không được có động thái ngăn chặn khách hàng tiếp cận đối thủ cạnh tranh của bạn. Sau khi bạn đã làm một loạt hành động trong vòng đầu tiên thì ở vòng thứ hai bạn sẽ bị người khác cạnh tranh. Khổ thế đấy.

Trong tác phẩm “Bàn về tự do” (On Liberty – 1859), nhà kinh tế học và triết gia John Stuart Mill tuyên bố: “Xã hội thừa nhận không có quyền, về pháp lí hay đạo đức, giúp cho những người thua cuộc tránh khỏi những đau khổ kiểu như thế; và chỉ thấy cần can thiệp khi những phương cách được sử dụng để đạt lấy thành công, là trái với những gì mà quyền lợi chung cho phép – tức là dùng cách lừa đảo, phản trắc hay cưỡng bức” (Bản dịch của Nguyễn Văn Trọng, NXB Tri Thức, 2006).

Không có chủ nghĩa bảo hộ. Không có chủ nghĩa quốc gia về kinh tế. Người tiêu dùng, đặc biệt là người nghèo, được quyền mua những cái bút chì tốt hơn và rẻ hơn. Nghĩa là, tự do kinh tế là một phần của quyền tự do.

Trong thực tế, tự do kinh kế là quyền tự do mà đa số người dân bình thường quan tâm

Đúng thế, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do kiến nghị với chính phủ và bầu chính phủ mới, trong dài hạn, là những biện pháp cực kì cần thiết nhằm bảo vệ tất cả các quyền tự do. Trong đó có quyền tự do kinh tế là mua và bán.

Nhưng chỉ có một số ít người có học vấn mới coi trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do kiến nghị với chính phủ và quyền bầu chính phủ mới mà thôi. Đa số người dân thường không quan tâm tới tự do ngôn luận, miễn là họ, nếu muốn, có thể mở cửa hàng và đến được nơi có công việc với đồng lương xứng đáng.

Phần lớn người Thổ Nhĩ Kỳ, sau năm 2013, dưới sự lãnh đạo của Erdoğan, đã ủng hộ việc Thổ Nhĩ Kỳ trượt nhanh vào chủ nghĩa tân phát-xít. Mussolini và Hitler đã giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử và được lòng dân trong khi họ đang tước đoạt một các quyết liệt các quyền tự do. Thậm chí một vài chính phủ cộng sản còn được nhân dân bầu lên, bằng chứng là trường hợp Venezuela dưới thời Hugo Chavez. Nhân vật chính trong tác phẩm “Forever Flowing” của Vasily Grossman (1905-1964) – chỉ là một ví dụ về việc một nhà văn theo đường lối của Stalin đã chuyển hóa hoàn toàn sang phía chống cộng – tuyên bố: “Tôi đã từng nghĩ tự do là tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lương tâm. Nhưng thực ra là: bạn phải có quyền gieo cấy những thứ mà bạn muốn, bạn có quyền khâu giày hay may áo khoác, nướng bánh mì bằng bột làm từ những hạt lúa mì mà bạn đã trồng cấy được, và bán hay không bán, có quyền tự do làm việc theo ý bạn chứ không phải theo lệnh của họ”.

Trong những năm 1870, con người thánh thiện như Adam Smith đã rất tức giận trước những vụ can thiệp nhằm ngăn chặn và không cho người lao động ở Anh được tự do đi lại để tìm kiếm việc làm có lợi nhuận cao. “Tài sản mà mỗi người đều nằm trong sức lao động của người đó, vì nó là nền tảng đầu tiên của tất cả các tài sản khác, vì thế, sức lao động là thiêng liêng nhất và bất khả xâm phạm. Ngăn cản người ta sử dụng sức lao động… theo cách mà người đó nghĩ là thích hợp mà không làm hại người láng giềng là vi phạm trắng trợn thứ tài sản rất mực thiêng liêng này”.

Một cách đáng ngạc nhiên, tự do kinh tế đã làm cho cả thế giới giàu lên về về hàng hoá và dịch vụ một cách nhanh chóng

Đến mức nào?

Năm 1800, thu nhập bình quân đầu người ở những nước như Thụy Điển hay Nhật Bản, tính bằng mức giá cho năm 2018, là khoảng 3 USD/ngày. Hiện nay là hơn 100 USD/ngày, tức là tăng 3.200%. Không phải 100% hay thậm chí 200%, mà là 3.200%. Của cải tăng lên không phải gấp 2 lần như thường xảy ra trong những giai đoạn bùng nổ trước kia – ví dụ ở Hy Lạp cổ đại hay thời nhà Tống ở Trung Quốc, để có thể quay về mức 3 USD/ngày. Nó đã tăng lên những 33 lần. Không còn nạn đói. Con người phát triển cao lớn hơn. Tuổi thọ tăng gấp đôi. Nhà ở rộng hơn. Đi lại nhanh hơn. Học vấn cao hơn. Nếu bạn còn nghi ngờ, xin hãy xem những đoạn băng video của Hans Rosling (đã quá cố) tại Gapminder.

Những lời giải thích thường thấy của các nhà kinh tế học và sử học về “khối tài sản khổng lồ” (The Great Enrichment) vì thế là không chính xác. Quá trình tích lũy vốn hoặc khai thác thuộc địa không phải là nguyên nhân. Tính khéo léo (ingenuity) mới là nguyên nhân. Mà chính cái tính khéo léo ấy, sở dĩ có thể được tạo ra, là bởi vì từ sau năm 1800, con người đã được hưởng những quyền tự do mới. Viễn kiến của chủ nghĩa tự do về bình đẳng, tự do và công bằng đã khiến rất nhiều người trở thành dũng cảm. Trước hết là những người tự do và giàu có, rồi đến những người nghèo, rồi tới những người từng là nô lệ, rồi tới phụ nữ, những người đồng tính, rồi đến người tàn tật… Khiến cho mọi người trở thành tự do đã trở thành hiện thực (mà đây vốn là một thí nghiệm chưa bao giờ được thực hiện ở quy mô lớn như vậy), với ngày càng có nhiều người dân được truyền cảm hứng và có thể tự thử sức. “Tôi chứa nổi vô số thứ” – nhà thơ của chủ nghĩa tự do mới từng cất tiếng ca lên như thế. Và ông đã làm đúng với điều đó. Ông và bạn bè của ông đã thử động cơ hơi nước và các viện nghiên cứu, với đường sắt, trường công lập, đèn điện, các tập đoàn, kĩ thuật mã nguồn mở, chở hàng bằng container và Internet.

Chúng ta trở nên giàu có bằng cách để cho những người dân bình thường được hưởng quyền tự do kinh tế

Và bây giờ, chúng ta đã vươn ra bên ngoài vùng trung tâm của Tây Bắc Âu.

Trung Quốc sau năm 1978, cũng như Ấn Độ sau năm 1991, bắt đầu từ bỏ lí thuyết xã hội chủ nghĩa phi tự do của châu Âu vốn được hình thành vào giữa những năm 1800 và đã được “xuất khẩu” tới gần 1/3 diện tích địa cầu vào trước năm 1970. Kết quả của việc chuyển sang chủ nghĩa tự do về kinh tế là sức tăng trưởng hằng năm của hàng hóa và dịch vụ dành cho người nghèo ở Trung Quốc và Ấn Độ tăng từ mức 1%/năm (đôi khi còn âm) thời xã hội chủ nghĩa lên mức 7-12%/năm. Với tốc độ tăng trưởng như thế, chỉ cần 2 hoặc 3 thế hệ là cả hai nước sẽ có mức sống của châu Âu. Đối với 40% dân số hiện nay, đấy không còn là mơ ước viển vông nữa.

Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan cũng làm ra nhiều của cải như thế trong giai đoạn tương tự. Chủ nghĩa tự do mới và chính phủ trung thực ở Ireland và Botswana cũng tạo ra những câu chuyện thành công đáng ngạc nhiên khác.

Đương nhiên là một chính phủ phi tự do về kinh tế có thể vay vốn từ các nước tôn trọng tự do. Ví dụ từ năm 1917 đến năm 1989, Liên Xô đã làm như thế. Và trong một thời gian dài, thậm chí nhiều nhà kinh tế học ở phương Tây cũng tin vào câu chuyện cổ tích của nước này, rằng kế hoạch hóa tập trung đạt được hiệu quả. Năm 1989, khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, chúng ta đã tìm ra câu trả lời khẳng định rằng kế hoạch hóa không có hiệu quả không chỉ đối với nền kinh tế mà còn đối với môi trường và các quyền tự do khác.

Singapore đôi khi được nêu lên như một ví dụ về một nền độc tài thông minh. Trung Quốc cũng thế, nước này vẫn do thành phần ưu tú của các đảng viên cộng sản cao cấp cai trị. Tuy nhiên, người dân cả hai nước đều được hưởng khá nhiều quyền tự do kinh tế, mặc dù các chính phủ tại đó vẫn bỏ tù những người có tư tưởng chính trị đối lập.

Giàu có sẽ dẫn đến những đòi hỏi về tất cả các quyền tự do, tự do chính trị, cũng như tự do kinh tế

Đó là những gì mà người dân đã làm ở Đài Loan và Hàn Quốc. Người giàu sẽ không tiếp tục chịu đựng cảnh nô lệ nữa. Và dù nói thế nào thì thành tích trung bình của các chế độ độc tài là thảm hại về kinh tế, ví dụ Zimbabwe, sát nách nước Botswana thịnh vượng. Hay ta có thể thấy điều đó trong lịch sử lâu dài và ảm đạm của chủ nghĩa phi tự do trên toàn thế giới, kể từ khi con người phát minh ra ngành nông nghiệp cho đến năm 1800.

Phúc âm của Ki-tô giáo đã hoàn toàn chính xác khi cho rằng “nếu một người chiếm được cả thế giới nhưng mất đi linh hồn thì lại có ích gì?”. Những tuyên bố chống lại chủ nghĩa tự do kinh tế luôn luôn theo cùng một kiểu. Đó là ngay cả khi chúng ta được hưởng lợi từ thế giới vật chất thì chúng ta đánh mất linh hồn. Cánh cực tả nói với chúng ta rằng tự do trao đổi về bản chất là xấu. Bất cứ sự khuếch trương nào cũng chỉ là khuếch trương cái ác mà thôi. Cánh cực hữu thì lại nói với chúng ta, trao đổi tự do chẳng là gì so với niềm vinh quang của cấp bậc và chiến tranh. Nhưng tất cả những gì mà cánh cực tả lẫn cực hữu, cũng như phái trung dung phàn nàn về “chủ nghĩa tiêu thụ” đều sai. Bằng chứng là chủ nghĩa tự do kinh tế không làm chúng ta hư hỏng mà ngược lại đã làm cho chúng ta có đạo đức hơn, cũng như giàu có hơn hẳn. Nó làm cho chúng ta giàu lên theo cả hai nghĩa, vật chất và tinh thần. Lí do là việc trao đổi mà hai bên cùng có lợi không phải là trường dạy đạo đức tệ hại nhất. Nó hoàn hảo hơn thái độ tự cao tự đại của các nhà quý tộc hay thái độ xấc xược của các quan chức. Trong chủ nghĩa tự do về kinh tế, có hàng triệu con đường đầy vinh quang, có thể đưa ước muốn thành công của con người tới đích, từ xây dựng mô hình đường sắt tới lĩnh vực giải trí. Khác hẳn với những xã hội phi tự do, mà trong đó chỉ có một con đường hẹp, với các tòa án, bộ chính trị hoặc quân đội. Chúng ta không đánh mất linh hồn trong thương mại mà đang nuôi dưỡng nó.

Hiện nay, ngay cả trong những xã hội tự do, quân đội vẫn được ngưỡng mộ, người ta ca ngợi quân đội vì “tinh thần phục vụ” của nó. Thế nhưng, tất cả các hành vi kinh tế giữa những người trưởng thành đều mang tinh thần phục vụ cả. Những thói quen mang tính đạo đức của thương mại được thể hiện mỗi ngày, theo cách mà một chủ cửa hàng ở Mỹ chào hỏi khách hàng: “Tôi có thể giúp được bạn điều gì không? “. Kết quả là gì? Các khán phòng hòa nhạc và viện bảo tàng ở các nước giàu có lúc nào cũng đầy khách tham quan. Các trường đại học phát triển liên tục và những kẻ tìm kiếm phương pháp khiến cho tâm hồn được thăng hoa – nếu không phải thuộc về các nhà thờ tôn giáo truyền thống – cũng đang gia tăng. Người ta không thể dành nhiều thời gian cho sự thăng hoa trong nghệ thuật, trong khoa học, trong bóng chày hay trong gia đình hoặc Thiên Chúa khi phải đầu tắt mặt tối làm việc từ rạng sáng tới tối mịt.

Chủ nghĩa bảo hộ mới là lí do khiến tỷ lệ thất nghiệp ở người trẻ trên toàn cầu gia tăng và khiến cho con người trở nên nghèo đói, hủ bại

Cách tốt nhất để làm cho người ta trở nên xấu xa và nghèo đói là các xã hội phi tự do của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát-xít, và thậm chí là cả chủ nghĩa xã hội đầy hấp dẫn nhưng với quá nhiều quy định.

Phụ nữ trong chế độ độc tài thần quyền của Saudi Arabia chỉ được luẩn quẩn trong xó nhà, không được làm cả những việc như lái xe ô-tô. Chủ nghĩa dân tộc về kinh tế của phái cực hữu có tên là Alt-Right đang bần cùng hóa mọi người vì nói gì thì nói, họ cũng ngăn chặn và không cho chúng ta tiếp xúc với những ý tưởng từ thế giới rộng lớn bên ngoài.

Nếu quá trình cải thiện điều kiện sống ở Mỹ đang chậm lại – một khẳng định đáng ngờ nhưng được nhiều người chia sẻ – thì chúng ta cần các nước mới giàu có như Trung Quốc hoặc Ấn Độ giúp đỡ chứ không phải đóng cửa để “bảo vệ việc làm” ở trong nước. Logic của phái bảo hộ sẽ khiến cho chúng ta phải sản xuất tất cả mọi thứ ở Illinois hay Chicago, hoặc trong những đường phố ở địa phương của chúng ta – bất kể là sản xuất bột ăn sáng, chế tác đàn Accordions, chế tạo máy vi tính. Xét về kinh tế học, logic này là ngớ ngẩn nhưng chủ nghĩa dân tộc thì đang khuấy động nó lên.

Cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát-xít, và cả cái bản năng thích áp đặt của các chính phủ mang tính cưỡng bức nằm ở giữa phổ chính trị là can thiệp quá nhiều vào việc của người khác. Ở Mỹ, hơn một nghìn ngành nghề cần có giấy môn bài của chính phủ. Muốn mở một bệnh viện mới thì phải cần các bệnh viện hiện hành cung cấp giấy chứng nhận là có nhu cầu. Ở Tennessee, nếu bạn muốn mở một công ty vận chuyển đồ gia dụng với hai người đàn ông và một chiếc xe tải, luật pháp buộc bạn phải được các công ty đang làm việc này đồng ý. Những biện pháp bảo vệ công việc hiện có người đang làm gây ra nạn thất nghiệp hàng loạt, cũng như dễ dẫn đến bùng nổ về chính trị trong giới trẻ trên khắp thế giới. Một phần tư người Pháp dưới 25 tuổi và đã thôi học hiện đang thất nghiệp. Ở Nam Phi, tình hình còn tồi tệ hơn nữa. Tuy nhiên, những người theo phái tự do chân chính và nhân văn không phải là những người vô chính phủ (xuất phát từ tiếng Hy Lạp – archos, không có người cai trị). Người ta có thể thừa nhận rằng giảm một chút quyền tự do kinh tế bằng cách đánh thuế người giàu nhằm giúp đỡ người nghèo, ví dụ giáo dục công lập, là tốt. Không có ai phản đối, Smith và Mill, và thậm chí Thoreau cũng đồng ý như thế (Đúng là chính phủ lớn thường giúp đỡ những người giàu có và quyền lực, ví dụ bảo hộ nông dân ở Mỹ và Thị trường chung (Common Market). Các chính phủ lớn thường tuân theo phiên bản đáng ghê tởm của Luật Vàng (Golden Rule), mà cụ thể là người có vàng thì cai trị).

Và có thể công nhận rằng, ví dụ người Canada xâm lược Mỹ, thì để phục vụ quốc phòng, việc phải giảm bớt tự do kinh tế trong một thời gian có thể là có ích. Chẳng có ai phản đối gì ở đây cả (Tuy nhiên, các chính phủ lớn thường phá vỡ hoà bình để tiến hành những cuộc chinh phục mà họ cho là vinh quang. Họ thậm chí sẵn sàng lấy người Canada ra để làm cớ dọa nạt).

Tốt nhất là phải nhốt chính phủ trong cái lồng cơ chế

Những người theo phái tự do tin rằng giải pháp là hạn chế quyền lực của chính phủ, ngay cả khi đấy là một chính phủ được lòng dân. Vì rất đáng tiếc là chủ nghĩa phát-xít thường được lòng dân còn chủ nghĩa cộng sản đôi khi cũng được lòng dân. Các phiên bản ôn hòa của hai chủ nghĩa này, tức là chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đã rất được lòng dân trước khi những chế độ này mắc sai lầm nghiêm trọng. Người dân từng ủng hộ việc đàn áp người nước ngoài (châu Âu, tháng 8-1914) và bữa ăn miễn phí khi chính phủ kiểm soát nền kinh tế (Venezuela, tháng 8-2017). Vậy nên, chính phủ cần phải bị kiềm chế.

Trong số 190 chính phủ trên thế giới được xếp hạng về trung thực thì New Zealand đứng đầu còn Bắc Triều Tiên đứng cuối bảng. Chúng ta có thể xem 30 chính phủ trên cùng là những chính phủ đủ trung thực để hoàn thành nhiệm vụ. Tây Ban Nha nằm ở cận biên. Anh và Mỹ hội đủ điều kiện. Italy xếp thứ 75 và ngay bên trên Việt Nam, thì không.

Nhưng 30 chính phủ tương đối trung thực đứng đầu bảng chỉ phục vụ có 13% dân số thế giới. Các phép toán đã cho thấy vì sao thái độ lạc quan của những người dễ thương bên cánh tả và những người không dễ thương như thế bên cánh hữu, về việc khuếch trương quyền lực phi tự do của chính phủ, là ngây thơ. Thoreau từng viết, đúng theo phong cách của phái tự do: “Tôi hoàn toàn đồng ý với phương châm “chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị ít nhất” và mong ước phương châm ấy được áp dụng vào thực tế một cách có hệ thống hơn và càng nhanh càng tốt”.

Đúng là như thế, với một vài ngoại lệ khiêm tốn.

D.N.M

Tác giả, GS Deirdre Nansen McCloskey đã dạy kinh tế, lịch sử, tiếng Anh và truyền thông ở Trường ĐH Chicago (Illinois) từ năm 2000 đến năm 2015. Bà là nhà kinh tế học, sử gia và nhà hùng biện nổi tiếng, đã viết 17 cuốn sách và khoảng 400 bài báo về các chủ đề từ kinh tế kĩ thuật và lí thuyết thống kê đến ủng hộ người chuyển giới và đạo đức của giai cấp tư sản. Cuốn sách mới nhất của bà, xuất bản tháng 1-2016 ở University of Chicago Press có nhan đề “Bourgeois Equality: How Ideas, Not Capital or Institutions, Enriched the World”.

(Phạm Nguyên Trường dịch)

Nguồn: http://phamnguyentruong.blogspot.com/2017/09/cot-loi-cua-tu-do-la-tu-do-kinh-te.html

“Chúng ta mất 1/4 thế kỉ để xác lập một điều đương nhiên”

Nguyễn Lê

Môi trường đầu tư kinh doanh nhìn từ góc độ cải cách nền hành chính và tài chính công là chủ đề được vị Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM, TS Trần Du Lịch lựa chọn trong tham luận tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015, diễn ra trong hai ngày 21 và 22-4 ở thành phố Vinh – tỉnh Nghệ An.

Ba thời kì và ba nhân tố

Với dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) được Quốc hội thông qua cuối năm 2014, quyền tự do kinh doanh của công dân, được làm những gì mà pháp luật không cấm, đã được xác lập.

Nhấn mạnh đây chính là bước đột phá về thể chế kinh tế, TS Trần Du Lịch chỉ ra rằng Việt Nam mất gần 1/4 thế kỉ để xác lập tư duy về một vấn đề mang tính đương nhiên phải có trong cơ chế thị trường. Ông phân tích, nhìn suốt quá trình đổi mới thì quyền tự do kinh doanh của công dân – một loại quyền đương nhiên trong thể chế kinh tế thị trường – để được xác lập đã trải qua ba thời kì:

– Phải được Nhà nước cho phép trước khi lập doanh nghiệp (luật năm 1991);

– Được đăng kí lập doanh nghiệp và kinh doanh các ngành nghề theo giấy phép đăng kí (luật năm 2000);

– Được kinh doanh những gì mà luật không cấm hoặc ghi điều kiện (luật năm 2014).

Chúng ta đã mất gần 1/4 thế kỉ, nhưng để sự đổi mới tư duy này đi được vào cuộc sống thì vẫn đang còn là vấn đề phía trước. Nhưng dù sao, đây là một bước đột phá về nội dung đổi mới thể chế kinh tế – ông Lịch bình luận. Vị chuyên gia này cũng khái quát: kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường pháp lí tốt và nền hành chính mang tính phục vụ chính là ba nhân tố hỗ trợ lớn nhất cho doanh nghiệp phát triển và hội nhập tốt chứ không phải các chính sách ưu đãi nào khác của Nhà nước.

Kiếm lời không phải việc Nhà nước

Theo ông Lịch, Chính phủ nên hạn chế thấp nhất việc bảo lãnh tín dụng, cho vay lại từ nguồn vay của ngân sách đối với các dự án đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, xóa bỏ cơ chế ưu đãi bù giá cho doanh nghiệp, ví dụ giá điện. “Chúng ta cần giảm dần việc đánh giá hiệu quả đầu tư các dự án bằng sự nhận xét chủ quan của mình mà để chức năng đó cho thị trường” là những dòng chữ được in nghiêng tại bản tham luận.

Tác giả tham luận cũng cho rằng đối với các dự án đầu tư cần thiết cho nền kinh tế nhưng hiệu quả tài chính thấp thì Nhà nước hỗ trợ theo phương thức tài trợ một phần, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng trách nhiệm huy động vốn là của chính doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên bảo lãnh một phần tín dụng đối với các dự án đầu tư dưới hình thức hợp tác công – tư (PPP), như sự bù đắp một phần chi phí dự án và thực hiện chính sách thuế ưu đãi cao nhất đối với loại hình đầu tư này – ông Lịch gợi ý.

Để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, đại biểu Trần Du Lịch cho rằng trước hết cần nhận thức lại chức năng quản lí kinh tế của Nhà nước phù hợp thuộc tính của cơ chế thị trường. Nhà nước theo đuổi mục tiêu phát triển của quốc gia chứ không theo đuổi mục tiêu kinh doanh kiếm lời. Kinh doanh kiếm lời là việc của thị trường – ông Lịch kiên trì bày tỏ quan điểm đã được thể hiện ở một số phát biểu trong các diễn đàn trước. Theo quan điểm của ông, thu hẹp lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chính là tạo điều kiện để thị trường phân bố có hiệu quả các nguồn lực phát triển và tạo lập đầu tư kinh doanh bình đẳng.

N.L

Nguồn: http://vneconomy.vn/thoi-su/chung-ta-mat-14-the-ky-de-xac-lap-mot-dieu-duong-nhien-20150420041750173.htm

Cả thế giới cười vì Việt Nam giờ mới coi kinh tế tư nhân là động lực?

Nguyễn Tuyền

Tại Hội thảo bàn về vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển tại Việt Nam vừa diễn ra tại Hà Nội sáng nay (4-10-2017), rất nhiều chuyên gia kinh tế tỏ vẻ sốt sắng về sức khoẻ của khu vực kinh tế tư nhân trước ngưỡng cửa hội nhập và những chuyển biến rất chậm từ lời nói đến hành động của bộ máy quản lí kinh tế.

Vẫn vật lộn với tư duy và hành động

Theo TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, đất nước mình có lẽ là khi thấy cái gì yếu hẳn đi sẽ rất quan trọng, khu vực tư nhân khi thấy nó yếu được phong ngay danh hiệu quan trọng. Đây là điểm để nói rằng cách nhận thức vai trò kinh tế tư nhân thực dụng đến mức nào. “Kinh tế tư nhân loài người đã nói mãi nhưng chúng ta đến giờ mới coi tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, nói nhiều quá thế giới thậm chí cười cho” – ông Thiên nói.

Theo TS Trần Đình Thiên, thể chế kinh tế nào thì doanh nghiệp ấy. Chúng ta vẫn yêu chiều, dồn nguồn lực vào DN nhà nước, vẫn mãi vật lộn với cơ cấu nguồn lực tăng trưởng ở khu vực này thì sao khu vực DN tư nhân chẳng bé đi. “Ta phải nói là trong 30 năm rồi, các cơ chế cho kinh tế tư nhân vẫn chưa được hoàn thiện. Câu hỏi được đặt ra là nó chậm hoàn thiện hay có chỗ nào đặt rào cản để chậm hoàn thiện. Trong khi đó, trên thương trường, các DN nhà nước chiếm lĩnh hết nguồn lực, DN tư nhân bao năm qua bị o ép, còi cọc không lớn được và không dám lớn” – TS Thiên nhấn mạnh.

Một vấn đề cản trở kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế thị trường tại Việt Nam là cơ chế thông tin hoá, tiếp cận thông tin của DN. Ông Thiên bình luận: “Hiện vấn đề tiếp cận thông tin của DN đã được cải thiện chưa, tôi nói là chưa và có thì quá chậm thì làm sao kinh tế tư nhân đi lên được”.

Đồng quan điểm, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhấn mạnh: “Khoảng cách phát triển tại Việt Nam hiện nay không phải từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau mà là khoảng cách giữa lời nói và hành động. Chúng ta đổi mới chưa thực sự hoàn chỉnh, kinh tế nhà nước vẫn chưa đến 1% số DN nhưng được hưởng 50% nguồn lực, trong đó có những nguồn lực tốt nhất”. Trong thời gian suy giảm kinh tế vừa qua, có DN nhà nước nào phá sản đâu, nếu họ kinh doanh thua lỗ lại đổ có cái nọ cái kia. “DN nhà nước nếu có vấn đề ngay lập tức được Nhà nước cứu. Thời gian qua, hàng vạn DN tư nhân phá sản, trong khi chúng ta vẫn bàn về tìm đâu ra nút thắt để tháo gỡ khó khăn cho khu vực này mà nút thắt quan trọng nhất là thể chế kinh tế, bộ máy, con người và đặc biệt là chuyển biến từ tư duy, suy nghĩ đến hành động còn quá khác xa nhau, chưa chuyển biến được. Chúng ta đang mắc nợ vì qua 30 năm đổi mới mà khu vực kinh tế tư nhân vẫn còi cọc, bị giảm đi và không lớn được” – bà Lan nhấn mạnh.

Phát triển kinh tế tư nhân: văn bản có hàng mét, thực hiện thì…

Theo TS Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lí kinh tế trung ương (CIEM): “30 năm nay chúng ta đã nói đến chuyện làm thế nào để phát triển kinh tế tư nhân, có những cái đã có văn bản dài hàng mét nhưng thực hiện vẫn như cũ. Phải tìm ra cái mới, làm cái mới chứ đừng nhắc đi nhắc lại mãi những vấn đề của nghị quyết, của khó khăn mà hàng chục năm không giải quyết được. Đã đến lúc cần nghiêm túc trong hành động và suy nghĩ để giúp DN phát triển, đừng mãi trông chờ vào nước ngoài, vào DN nhà nước” – ông Bá nói.

Theo TS Bá, thời gian qua có nhiều trở lực không muốn, không cho khu vực tư nhân phát triển. Nguyên nhân là các cơ quan công quyền lo giữ ghế, bảo vệ lợi ích của bộ, ngành mình để đề ra chính sách có lợi cho mình. “Thực tế, nếu DN tư nhân đã lớn lên, họ sẽ “bật” lại các chính sách duy ý chí, chính sách chỉ phục vụ lợi ích cục bộ. Đây chính là điều chúng ta đang thấy xảy ra ở một số ngành công nghiệp và loại hình dịch vụ” – ông Bá đặt nghi vấn.

Theo GS-TS Võ Đại Lược, trên thế giới, không một nền kinh tế nào không phát triển kinh tế tư nhân, vai trò của doanh nghiệp tư nhân đang quan trọng nhất. Mỹ có Apple, Facebook, Trung Quốc có Alibaba… còn chúng ta đang có khu vực kinh tế tư nhân phát triển quá còi cọc. “Chúng ta có một số DN tư nhân có thể gọi là lớn nhất so với đại đa số các DN khác còn lại. Tuy nhiên, chủ yếu là các đại gia bất động sản, hầu như không có đại gia về công nghiệp. Nếu cạnh tranh công nghiệp với nước ngoài, chúng ta thua ngay. Về công nghiệp cơ bản và nền tảng cạnh tranh động, chúng ta đang rất kém. Kí hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, ta mở cửa nhiều ngành nghề lĩnh vực thì sắp tới, không có công nghiệp, cơ khí xương sống ai sẽ đứng ra cạnh tranh đây? Doanh nghiệp tư nhân ốm yếu, què quặt thì cạnh tranh sao nổi” – GS Lược nhấn mạnh.

N.T

Nguồn: http://dantri.com.vn/kinh-doanh/ca-the-gioi-cuoi-vi-viet-nam-gio-moi-coi-kinh-te-tu-nhan-la-dong-luc-20161004143813269.htm

This entry was posted in kinh tế. Bookmark the permalink.