Anh Minh
Báo cáo Đánh giá chi tiêu công Việt Nam vừa được WB công bố sáng 3-10-2017 nêu lên nhiều quan ngại trước xu hướng nợ công đang tăng nhanh của Việt Nam do chính sách tài khóa nới lỏng những năm qua. Theo WB, nợ công (nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và nợ chính quyền địa phương) tăng từ 51,7% năm 2010 lên 61% năm 2015. Trong đó, nợ Chính phủ chiếm 49,2%, nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,9% và nợ chính quyền địa phương khoảng 0,9%. Nếu không tính nợ bảo lãnh và vay nợ nội bộ, nợ trực tiếp Chính phủ khoảng 43,3% GDP năm 2015.
Vấn đề đáng lo ngại, theo WB, Việt Nam là một trong số quốc gia có tỉ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất, khoảng 10% trong 5 năm qua. Nếu xu hướng này vẫn tiếp diễn, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những quan ngại nghiêm trọng về bền vững tài khóa – WB cảnh báo.
Trước xu hướng nợ công tăng nhanh, cơ cấu vay nợ cũng đang dần thay đổi khi tỉ lệ vay nước ngoài giảm dần, thay vào đó là tỉ lệ vay trong nước từ mức 45% năm 2010 lên 55,4% sau đó 5 năm. Tuy nhiên, bên cạnh cải thiện cơ cấu vay, áp lực huy động để đảo nợ vẫn còn lớn, khoảng 50% nợ trong nước sẽ đáo hạn trong 3 năm tới. WB cho rằng đây sẽ là áp lực rất lớn trong điều kiện các nhà đầu tư tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ còn hạn chế như hiện nay.
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam 5 năm qua theo báo cáo của WB
Báo cáo của WB cũng chỉ ra tuy nợ công vẫn nằm trong ngưỡng cho phép nhưng hiện đang phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn. Nếu mức bội chi khoảng 5,6% GDP trong giai đoạn 2011-2015 vẫn được duy trì thì tỉ lệ nợ công sẽ vượt trần cho phép (65% GDP) những năm tới, kể cả khi tăng trưởng GDP duy trì ở mức cao và chi phí huy động vẫn còn tương đối thuận lợi như hiện nay. Mặt khác, dư địa ngân sách đang ngày càng mỏng, khiến nợ công có thể trở nên mất bền vững ngay cả trước những cú sốc nhẹ của nền kinh tế, thị trường. Vì thế, báo cáo WB cho rằng song song việc duy trì dư địa ngân sách thì Chính phủ Việt Nam cần tính tới những rủi ro để “chống chọi” trước những cú sốc nếu có. “Chính phủ cần thiết lập cơ chế để xác định và phân tích một cách có hệ thống những rủi ro tài khóa liên quan đến nghĩa vụ nợ dự phòng. Ưu tiên chính lúc này là phải triển khai các quy định để tạo điều kiện cho Chính phủ đánh giá thực chất hiệu quả sử dụng nguồn lực công, phân tích các nghĩa vụ dự phòng tiềm ẩn. Ngoài các biện pháp đồng bộ nhằm giảm bội chi ngân sách, Chính phủ Việt Nam cũng cần tăng cường năng lực quản lí nợ công bằng cách củng cố danh mục nợ và phát triển thị trường nợ trong nước trên cơ sở đa dạng hóa thị trường sơ cấp, thứ cấp và mạng lưới nhà đầu tư, dịch vụ hỗ trợ thị trường” – WB khuyến cáo.
Trong bản tin nợ công số 5 được Bộ Tài chính công bố cuối tháng trước, nợ công Việt Nam đã vượt 2 triệu tỉ đồng (94,3 tỉ USD), tương đương 61% GDP. Trong khi nợ trong nước có xu hướng tăng nhanh, từ 20,4 tỉ USD lên 54,6 tỉ USD thì mức tăng nợ nước ngoài chậm hơn, từ 32,3 tỉ USD lên mức 39,6 tỉ vào cuối 2015. Cũng trong năm 2015, tổng số tiền trả nợ của Chính phủ gấp 2,5 lần so với 2011, tương đương 13,3 tỉ USD (khoảng 288.000 tỉ đồng). Tỉ lệ nợ của Chính phủ so với thu ngân sách 4 năm từ 2011 đến 2015 cũng liên tục tăng, từ 162% lên hơn 206%. Xét về số tuyệt đối, chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia (nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp) vẫn tăng, vượt 80,8 tỉ USD (xấp xỉ 1,75 triệu tỉ đồng) trong khoảng thời gian này.
A.M