Trần Đức Viên
BVN nhất trí với GS-TS Trần Đức Viên. Ở một đất nước mà ngay cả GS-TSKH Hoàng Xuân Phú (Viện Toán học – Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam) cũng phải sững sờ trước những con số phản ánh khối lượng và chất lượng công việc của các Giáo sư, Phó giáo sư mà Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước công bố thì nỗ lực của Nhóm xếp hạng đại học Việt Nam thực đáng trân trọng. Có lẽ trường đại học tử tế nào cũng muốn có tên trong những bảng xếp hạng kiểu như thế này.
Tuy nhiên, trong việc ĐH Tôn Đức Thắng được xếp thứ nhì sau ĐH Quốc gia HN, vẫn còn nhiều bàn luận trong giới khoa bảng, vì nhiều người cho biết, thành tích đạt tỷ lệ 40% số bài báo đăng quốc tế là do bao nhiêu năm nay ĐH TĐT vẫn “chịu khó” bỏ tiền ra trả cho các giảng viên các ĐH khác để khi họ được đăng công trình lên các tạp chí quốc tế thì họ kê tên của ĐH TĐT vào. Như vậy các công trình đó không phải do cán bộ cơ hữu của ĐH TĐT thực hiện, cũng không phải thực hiện ở chính ĐH TĐT. Chưa biết thực hư chuyện này ra sao nhưng nếu quả đúng như vậy thì đây là việc lén lút mua danh, còn tệ hơn cả những kiểu ganh đua thành tích tệ hại khác, vì nơi đây là môi trường giáo dục, không chỉ có nhiệm vụ bồi dưỡng kiến thức khoa học mà còn xây dựng phẩm chất con người. Không ngờ đến thập niên thứ 2 của thế kỷ 21 rồi mà thói quen xôi thịt vẫn còn đeo bám trong đầu óc những kẻ mang trách nhiệm người khai hóa thế hệ trẻ. Chẳng biết hậu quả của nó có làm cho tâm hồn con em chúng ta tại ngôi trường mang tên nhà cách mạng nổi tiếng họ Tôn bị vẩn đục nhiều ít hay không. Nguy lắm thay!
Bauxite Việt Nam
Không đi thì không đến
Xếp hạng đại học (ĐH) là một công việc hết sức khó khăn, gai góc và phức tạp, đòi hỏi sự khách quan, nghiêm túc, công phu, thận trọng, dựa trên cơ sở dữ liệu đủ lớn, khả tín, minh bạch với một hệ thống tiêu chí cũng như trọng số của từng tiêu chí phải hết sức khoa học và thuyết phục. Trong bối cảnh Việt Nam, nơi hành vi của mỗi cá nhân và cộng đồng vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết lí sống “một trăm cái lí không bằng một tí cái tình” hay ” xấu đều hơn tốt lỏi”… thì đây còn là một công việc tế nhị, nhạy cảm mà những người không đủ bản lĩnh và dũng khí sẽ không dám làm. Vì thế, việc Nhóm Xếp hạng ĐH Việt Nam (sau đây xin gọi tắt là “Nhóm”) gồm TS Lưu Quang Hưng, TS Nguyễn Ngọc Anh, TS Giáp Văn Dương, TS Ngô Đức Thế, ThS Trần Thanh Thủy và ThS Nguyễn Thị Thu Huyền, mỗi người “một phương trời”, cùng nhau tiến hành và công bố bảng xếp hạng mang tính tổng thể đầu tiên đối với 49 trường ĐH Việt Nam đã được đông đảo những người quan tâm đến chấn hưng giáo dục (GD) ĐH Việt Nam đón nhận một cách trân trọng. Đã có nhiều ý kiến bày tỏ lòng khâm phục sự nỗ lực, dám đối mặt với khó khăn và không cầu toàn của nhóm tác giả, tin tưởng vào các phương pháp định lượng được sử dụng dù còn nhiều tiêu chí và trọng số của các tiêu chí cần được thảo luận thêm. Đặc biệt, điều đáng hoan nghênh là Nhóm đã chú trọng đến chất lượng, nhất là chất lượng nghiên cứu khoa học (NCKH), cái quyết định danh tiếng và đẳng cấp của một trường ĐH.
Thực tế là, kết quả xếp hạng ĐH, dù do một tổ chức uy tín đến mấy công bố thì cũng không thể hoàn hảo bởi không có bảng xếp hạng nào phản ánh được tất cả các mặt và lĩnh vực hoạt động của một trường ĐH. Nhưng bất cứ bảng xếp hạng nào cũng đóng góp những giá trị nhất định và có sự tương thích nào đó với chất lượng đào tạo và NCKH của các trường nằm trong bảng xếp hạng, và vì thế, đó là một tài liệu tham khảo, còn mức độ quan trọng đến đâu thì phụ thuộc mục đích và quan điểm của người sử dụng. Các bảng xếp hạng này, không ít thì nhiều, đã góp phần vào việc thay đổi chính sách quốc gia, chiến lược cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trường ĐH theo hướng ngày một nhân văn và khai sáng hơn. Xếp hạng còn khuyến khích các trường minh bạch thông tin, giúp xã hội và nhà nước giám sát tốt hơn chất lượng hoạt động của các trường.
Vạn sự khởi đầu nan, không đi thì không đến, vì thế, với việc công bố báo cáo xếp hạng đầu tiên, Nhóm đã làm cho nhiều người – ít nhất là những bạn bè và đồng nghiệp trong giới học thuật của tôi – vui mừng, vì:
(1) Như vậy là chúng ta đã có một hệ thống xếp hạng ĐH riêng, do một nhóm học giả Việt Nam độc lập tiến hành, bảo đảm khách quan, minh bạch, có tham khảo và đối sánh kĩ càng với các bảng xếp hạng quốc tế nhưng không sao chép, rập khuôn, phù hợp điều kiện của đất nước;
(2) Trong khi các tổ chức và cơ quan có trách nhiệm vẫn đang loay hoay với việc thực hiện Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 8-9-2015 của Chính phủ về “phân tầng xếp hạng” đại học và câu chuyện ấy vẫn còn đang gây ra nhiều tranh cãi thì rất may “tự dưng” chúng ta lại có một bảng xếp hạng ĐH của Việt Nam, do một nhóm phi lợi ích, phi chính phủ, độc lập và không bị tác động của lợi ích nhóm nào, tiến hành;
(3) Công trình đó không xài một đồng tiền thuế nào của dân, Nhóm chỉ có 6 người, làm trong 3 năm;
(4) Kết quả xếp hạng khả tín vì cũng tương đồng với các công bố gần đây về xếp hạng ĐH Việt Nam của một số tổ chức xếp hạng quốc tế như Webometrics, Scientometrics;
(5) Chắc chắn phương pháp thu thập số liệu, tiêu chí và các trọng số trong bảng xếp hạng sẽ tiếp tục là đề tài tranh luận sôi nổi của những người quan tâm đến chất lượng GDĐH Việt Nam, và vì thế, tự nó tạo ra một diễn đàn sôi nổi và xây dựng về chất lượng GDĐH Việt Nam;
(6) Tạo ra văn hóa chất lượng trong đánh giá ĐH, hạn chế dần sự tù mù định tính chung chung, trường này thuộc top trên, trường kia thuộc top dưới như xã hội vẫn thường “xếp hạng”;
(7) Rất có thể công bố này sẽ khiến các nhà làm chính sách, các trường ĐH phải xem lại công việc của mình, và xã hội cũng sẽ có những điều chỉnh thang bậc giá trị trong GDĐH theo hướng tiệm cận dần những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều đó, không ít thì nhiều, đều có ích cho người học, cho xã hội…
Cú huých làm bừng tỉnh nhiều người
Điều quan trọng là kết quả xếp hạng lần đầu này đã như một “cú huých” làm bừng tỉnh không ít người.
Trong nhiều năm qua, các thang bậc giá trị của GDĐH trong xã hội phần nhiều được nhìn nhận cảm tính theo những thước đo của đám đông, không ít trong số đó là phi khoa học. Họ gọi trường X là trường top trên vì nhiều học sinh giỏi bậc THPT thi vào, điểm chuẩn đầu vào cao; họ coi trường Y là trường top dưới vì ít học sinh giỏi thi vào, thí sinh đa phần là con em nông dân, vùng sâu vùng xa, điểm chuẩn đầu vào thấp hơn. Thì ra trường thuộc top nào phụ thuộc điểm chuẩn, mà điểm chuẩn lại phụ thuộc việc sinh viên trường ấy ra trường dễ kiếm được việc làm ở các vị trí “thơm tho”, nghĩa là lương cao hơn, nhàn hạ hơn, được làm việc trong phòng có máy lạnh, không phải đầu tắt mặt tối, dầm mưa dãi nắng, có nhiều cơ hội thăng tiến hơn… Họ không cần biết trường ĐH ấy đã có những công trình khoa học nào được ứng dụng thành công trong thực tiễn sản xuất và đời sống, có đóng góp đáng kể nào cho quốc kế dân sinh hay đã có cống hiến gì làm phong phú thêm kho tàng tri thức của dân tộc và của nhân loại.
Về đại thể, GDĐH có ba nhiệm vụ chủ yếu: (1) sáng tạo ra tri thức mới thông qua NCKH và phát triển công nghệ, (2) truyền bá những tri thức ấy và những tri thức kế thừa khác cho thế hệ đương thời và thế hệ sau thông qua đào tạo, và (3) thắp lên ngọn lửa đam mê sáng tạo, ý thức nghề nghiệp và trách nhiệm công dân trong lòng người học. Vì thế, để GDĐH không biến thành “phổ thông cấp 4” thì NCKH phải trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất, ngang bằng (nếu không muốn nói là hơn) với nhiệm vụ giảng dạy, như các trường ĐH Nhật Bản và phương Tây đã làm, và sau đó một số nước đang phát triển khác đã khôn ngoan học theo. Vì vậy, nhiều người đánh giá cao bộ tiêu chí về NCKH chiếm 40% tổng số điểm xếp hạng của Nhóm.
“Cú huých” này sẽ làm các trường ĐH suy nghĩ nghiêm túc hơn về NCKH, cái làm nên “sức sống của trường ĐH” nhưng thời gian qua không được mấy trường dành cho sự quan tâm thích đáng. Trong GDĐH Việt Nam thì “vùng trũng” sâu nhất là NCKH; nó cần được “lấp đầy” trước hết để cùng với lực kéo của nhu cầu học tập của xã hội thì lực đẩy của NCKH trong các trường ĐH sẽ tạo ra những bước đột phá, đưa ĐH Việt Nam hội nhập sâu sắc và toàn diện hơn với bè bạn quốc tế theo những thước đo và thang bậc giá trị chung.
Trong một thế giới mở, cạnh tranh về GDĐH về thực chất là cạnh tranh về NCKH và năng lực đổi mới sáng tạo của các trường ĐH vì suy cho cùng, danh tiếng trường ĐH được xây dựng và khẳng định dựa trên chất lượng đào tạo, mà chất lượng đào tạo lại phụ thuộc chất lượng NCKH. Tác động vào “điểm nhấn” này sẽ khiến các nội hàm khác của GDĐH thay đổi theo.
Đôi điều góp ý
Nhiều ý kiến cho rằng khi đánh giá về NCKH, Nhóm lấy các công trình công bố trên hệ thống ISI và Scopus là đúng nhưng chưa đủ. Trong điều kiện cụ thể của đất nước, các tiêu chí về NCKH nên quan tâm nhiều hơn đến các phát minh, tiến bộ kĩ thuật, giải pháp hữu ích, đổi mới và sáng tạo công nghệ được áp dụng trong thực tiễn sản xuất và đời sống, phục vụ quốc kế dân sinh… Các công trình này cần có trọng số cao hơn các công bố quốc tế, ít nhất là trong giai đoạn hiện nay. Có lẽ các nhà khoa học Triều Tiên công bố quốc tế rất ít nhưng họ vẫn khiến cộng đồng khoa học quốc tế nể trọng bởi các cống hiến khoa học của họ cho đất nước mình. Hi vọng là cách tính này sẽ góp phần thúc đẩy hình thành thị trường khoa học và công nghệ còn đang rất yếu của chúng ta.
Nhóm cũng cần bổ sung tiêu chí về tiền ngân sách trên đầu giảng viên, trên một công bố quốc tế, một bản quyền công nghệ… Cùng trong hệ thống GDĐH quốc dân nhưng có trường được nhà nước đầu tư hàng ngàn tỉ đồng cho chi thường xuyên và NCKH, hỗ trợ đến hơn 10 triệu đồng/sinh viên/năm học trong khi có trường lại chỉ nhận được vài ba triệu đồng/sinh viên/năm học, và có những trường (ĐH tự chủ) không được nhận đồng nào hoặc được nhận rất ít sự hỗ trợ kinh phí của nhà nước. Họ phải tự lo mọi hoạt động, cố gắng dành dụm từng đồng cho NCKH. Như vậy, sự cạnh tranh thứ hạng ở đây rất không công bằng. Chúng ta có thể có bức tranh xếp hạng hoàn toàn khác, nhất là về NCKH, nếu nhà nước đầu tư cho các trường một cách bình đẳng, việc phân bổ kinh phí chỉ dựa trên KPIs (Key Performance Indicators) của các cơ sở GDĐH.
Cùng với xếp hạng theo trường, Nhóm cũng cần quan tâm đầy đủ hơn việc xếp hạng theo ngành hay nhóm ngành NCKH và đào tạo, như cách các tổ chức xếp hạng quốc tế đang làm. Một trường có thể xếp hạng 100 trong xếp hạng tổng thể nhưng lại đứng thứ nhất về lĩnh vực khoa học X, đứng thứ 50 về lĩnh vực khoa học Y… Làm sao để khi soi vào bảng xếp hạng, hầu hết các trường đều thấy mình trong đó, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Chúng tôi tin rằng trong các năm tiếp theo, Nhóm sẽ hoàn thiện thêm phương pháp nghiên cứu, bổ sung và chỉnh sửa các tiêu chí và trọng số của các tiêu chí, đồng thời kiên trì và dũng cảm giữ vững tính độc lập, khách quan, tự tin và cầu thị, từ đó giành được thêm niềm tin của xã hội.
T.Đ.V
Nguồn: http://tiasang.com.vn/-giao-duc/Mot-no-luc-dang-tran-trong-10918