Reforms are needed for Vietnam’s military
Wendell Minnick – Shephard
(https://www.shephardmedia.com/news/defence-notes/reforms-are-needed-vietnams-military/)
Phương Thảo lược dịch (VNTB)
Trong bài “Quân đội Việt Nam cần cải cách” Shephard đã đưa ra những đề nghị mà các chuyên gia dành cho quân đội Việt Nam trong bối cảnh phải đương đầu với Trung quốc hiện nay.
Bài báo đề cập đến việc tuy có liên tục hiện đại hoá quân đội từ sau năm 1975 đến nay, nhưng trong 10 năm qua thì quân đội chỉ tập trung xây dựng năng lực, xác định lại tính chất các mối quan hệ chiến lược, cải thiện hình thức dịch vụ của các doanh nghiệp quân đội như định hình kế hoạch mua sắm, huấn luyện và đào tạo, cơ cấu và chức năng.
Thành qủa đáng kể của doanh nghiệp quân đội đạt được phải kể đến là Viettel, doanh nghiệp của Bộ quốc phòng đã trở thành mạng điện thoại di động lớn nhất tại Việt Nam. Tuy đã đạt được một số thành công nhất định về vũ trang quân chủng nhưng cải tiến quân đội hơn nữa là việc làm cấp thiết, đặc biệt là trong cơ cấu lãnh đạo mà Paul Giarra, chủ tịch tổ chức “Chiến lược Toàn cầu” có cơ sở tại Washington cho là “hoàn toàn không được tái cơ cấu”.
Zachary Abuza, một chuyên gia về Đông Nam Á tại Trường Cao đẳng chiến tranh Quốc gia ở thủ đô Washington cho rằng “việc lựa chọn ông Ngô Xuân Lịch làm Bộ trưởng Quốc phòng năm 2016 vốn là một một chính trị viên không có kinh nghiệm chỉ huy lẫn quản lý là sự lựa chọn thực sự tẻ nhạt cho quân đội đang trải qua quá trình hiện đại hóa nhanh chóng”. Tuy nhiên sự chọn lựa này thể hiện những bất an của Việt Nam và những tranh cãi quanh việc quân đội phải ràng buộc với nhà nước chứ không phải với đảng cộng sản.
Vẫn theo Zachary Abuza thì dù các lực lượng trên bộ tuy được huấn luyện tốt nhưng không lực lại không được như vậy mà bằng chứng là các vụ rơi máy bay trong hai năm qua. Qua đó có thể thấy họ không có đủ máy bay hay thời gian huấn luyện đầy đủ. Tương tự như vậy với hải quân, tuy có được thiết bị tiên tiến hơn các lực lượng khác nhưng cũng không được huấn luyện tốt.
Nguyên nhân mà Carl Thayer chỉ ra là việc huấn luyện và đào tạo chủ yếu ưu tiên cho cán bộ cấp cao cũng như cử cán bộ tham dự các khoá học quân sự đặc biệt là các hoạt động phối hợp, Vì vậy Việt Nam cần phải chủ động tham gia các chương trình diễn tập quân sự song phương và đa phương với các đối tác nước ngoài để kiểm tra khả năng chiến đầu trong các khu vực ưu tiên như phòng không và an ninh hàng hải.
Thayer còn cho rằng: “Phát triển chiến lược phòng thủ và an ninh quốc gia nhất quán toàn diện để dẫn dắt sự phát triển về học thuyết, chiến lược, chiến thuật và khả năng tương tác quân chủng”.
Ông Abuza chỉ ra rằng một phần của vấn đề huấn luyện là các gói thầu với Nga thường thiếu gói bảo trì và chí phí bảo trì thường không được đưa vào kế hoạch ngân sách quốc phòng dài hạn của Việt Nam, đặc biệt là việc đấu thầu 6 tàu ngầm Kilo mới đây.
Collin Koh, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Quốc tế tại trường S. Rajaratnam Singapore cho rằng dù việc hiện đại hoá quân sự của Việt Nam phần lớn tập trung vào mối quan hệ với Nga, nhưng về lâu dài thì quan chức quân đội Việt Nam đang ngày càng lo ngại về hai mặt của mối quan hệ này vì Nga không chỉ cung cấp vũ khí cho Việt Nam mà còn cho cả Trung quốc.
Việt Nam vẫn mua các trang bị đắt tiền từ Nga dù đã có sự chuyển dịch sang các nguồn cung cấp ngoài Nga khác. Ngoài ra Nga là “ nhà buôn vũ khí thất thường” ví dụ họ chỉ hứa chuyển giao công nghệ nếu Việt Nam chịu mua ít nhất 6 tàu khu trục Gepard và cùng lúc đó Việt Nam cũng không hài lòng với tốc độ đóng tàu của họ.
Để giải quyết vấn đề này ông Koh khuyên Việt Nam nên dựa vào phương cách thay thế là sử dụng nguồn cung cấp ngoài Nga, đặc biệt là Hoà Lan và nội địa hoá khả năng đóng tàu dựa trên công nghệ chuyển giao hiện có từ Nga. Nếu thực hiện được việc nội địa hoá sẽ làm giảm đáng kể chi phí.
Sáu tàu Viking DHC-6 Twin Otter do Canada đóng tuy hiện đại nhưng lại nhỏ và có tải trọng nhỏ nếu khi phải đi tuần trên vùng biển Đông rộng lớn.
Ông Koh đề nghị Việt Nam nên xem xét một loạt các lựa chọn bao gồm tân trang máy bay Mỹ P-3C Orion hoặc sửa máy bay Airbus C-295 hay CASA CN235 (máy bay vận tải quân sự do Tây ban nha và Indonesia chế tạo) với gói IRS (Do thám, Giám sát và Trinh sát). Lý tưởng là hệ thống tích hợp gồm cả IRS có người lái và không người lái, cũng như viễn thám để có thể quan sát toàn bộ vùng biển Đông.
Theo Abuza, quân đội Việt Nam không có được chính sách thực tế cho cả hải quân lẫn không quân và Việt Nam quá hạn ra sách trắng quốc phòng đã 2 năm.
Ông Koh tin rằng Việt Nam nên dịch chuyển về phía phân cấp lớn hơn trong việc chỉ huy và kiểm soát, cũng như trao quyền cho lãnh đạo cấp dưới. Không như trong quá khứ khi Hà nội có thể dựa vào lực lượng quân đội với nòng cốt nông dân để áp dụng chiến tranh du kích. Trong bối cảnh hiện nay và tương lai gần thì Hà nội có thể sẽ phải đương đầu một cuộc chiến công nghệ cao, nhanh, và dữ dội với Trung quốc.
Nếu Trung quốc hướng về đó thì Việt Nam cũng nên như vậy vì Việt Nam “cần phải bù đắp cho sự thiếu hụt nhân lực và trang thiết bị so với Trung quốc, và cần phải cải cách táo bạo hệ thống chỉ huy và kiểm soát”.
Ông Koh còn nói thêm điều đó có nghĩa là phải thoả hiệp trong bối cảnh hệ thống chính trị tập trung theo kiểu cộng sản, sự kiểm soát chính trị đối với quân đội vẫn còn hiện hữu, nhưng nếu Việt Nam chọn tình trạng hiện tại thì có thể sẽ bị mất cơ hội để thậm chí có thể đối xứng với Trung Quốc.
Hà nội sẽ không có cách nào lấp được khoảng cách bằng số lượng nhân lực và trang thiết bị, thì ít nhất họ có thể làm tốt hơn Trung quốc trong việc phân cấp “chỉ huy và kiểm soát” và trao quyền nhiều hơn cho các lãnh đạo quân sự cấp dưới.
Nguồn bản dịch: http://www.ijavn.org/2017/08/vntb-quan-oi-viet-nam-can-cai-cach.html