Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong kỷ nguyên mà sự cạnh tranh Trung-Mỹ đang tăng cao Đối xử cân xứng các cường quốc lớn trong khi chủ động theo đuổi hội nhập quốc tế

Carlyle A. Thayer

Phát biểu trước Hội nghị quốc tế

về sự cạnh tranh giữa các nước lớn, chính trị trong nước, và

Chính sách đối ngoại khu vực Đông Nam Á

Dự án nghiên cứu Borg Dorothy

Đại học Columbia, New York

ngày 10 và 11 Tháng 11 năm 2016

*** Các điểm ghi chú xin xem nguyên bài tham luận của GS Carlyle A. Thayer (http://viet-studies.net/kinhte/VNForeignPolicy_Thayer.pdf)

Lời giới thiệu

Việt Nam là một quốc gia nữa toàn trị, độc đảng cai trị bởi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là hệ thống chính trị tương đồng với Trung Quốc và nước theo chủ nghĩa Mác-Lênin mà giờ đây đã đi vào lịch sử. Hệ thống chính trị của Việt Nam là một tổ chức xã hội chủ nghĩa và đơn nhất [1].

Đây là một hệ thống chính trị mà trong đó Đảng độc quyền kiểm soát toàn bộ các tổ chức nhà nước, lực lượng vũ trang và các tổ chức đoàn thể xã hội thông qua sự thâm nhập vào các tổ chức này bởi các đảng viên và các cấp đảng ủy. Đảng viên cao cấp tạo thành hạt nhân lãnh đạo của bộ máy Nhà nước, Quốc hội, Lực lượng vũ trang nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (VFF – Vietnam Fatherland Front).

Mặt Trận Tổ Quốc là một tổ chức bao trùm hai mươi chín tổ chức đoàn thể đã đăng ký (Phụ nữ, công nhân, nông dân, thanh niên) và các nhóm lợi ích đặc biệt (chuyên nghiệp, tôn giáo…). Các nhà lãnh đạo của các tổ chức đoàn thể thường phục vụ trong Ủy ban Trung ương Đảng.

Tất cả các tổ chức liên kết với Mặt trận Tổ quốc đều được tài trợ của nhà nước.

Vào cuối năm 1986 Việt Nam đã thông qua một chương trình cải cách được gọi là “Đổi Mới”. Việt Nam đã mở cửa cho đầu tư nước ngoài và dần dần chuyển nền kinh tế theo mô hình Liên Sô theo kinh tế kế hoạch tập trung [trước đâ] sang mô hình một “nền kinh tế thị trường với đặc thù xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam và việc này đã dẫn đến việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam ra ngoài khuôn khổ các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa và các nước không liên kết ra các nước Nhật Bản, Australia, Hoa Kỳ và Châu Âu.

Khi Việt Nam khởi sự hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu, họ đã đi tìm những hổ trợ phát triển từ các đối tác mới, các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO). Các cơ quan viện trợ nước ngoài và các INGOs đã cố gắng áp dụng mô hình phát triển riêng của họ vào Việt Nam với hy vọng tạo ra không gian cho xã hội dân sự bằng cách hổ trợ ưu tiên cho vai trò của các “tổ chức phi chính phủ” trong nước (NGOs) [2].

Trong thực tế, điều này có nghĩa là theo đuổi phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” nhấn mạnh phát triển là có sự tham gia và không phân biệt nam nữ và dân tộc.

Cách tiếp cận để phát triển này có vấn đề trong ý rằng không có một tổ chức phi chính phủ tự trị nào ở Việt Nam. Tất cả các tổ chức đoàn thể và các tổ chức ngoại biên của họ đều được nhà nước tài trợ và hình thành như một phần của mạng lưới tổ chức của MTTQ [3]. Nói cách khác tổ chức đoàn thể của Việt Nam không phải là đại diện đích thực của xã hội dân sự.

Khi cải cách được mở ra với chính sách “Đổi Mới”, quan hệ nhà nước-xã hội đã bắt đầu thay đổi. Trong những năm 1990 đã có một sự bùng nổ về hoạt động của nhiều tổ chức trong các tầng lớp ở Vietnam [4]. Có rất nhiều mạng [xã hội] và các nhóm nổi lên. Đặc biệt, có một sự tăng trưởng bùng nổ của các hiệp hội dựa vào cộng đồng tự nguyện phi chính phủ (CBO – Community Base Organization) đã diễn trong quần chúng. Họ đóng vai trò dẫn đường trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững, tạo thu nhập, và phổ biến kiến thức. Những nhóm này mới có thể được gom thành chín loại: chính trị, tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, thương mại và chuyên nghiệp, khoa học và công nghệ, nghệ thuật và văn hóa, phúc lợi xã hội / NGO, tôn giáo, các hội thân hữu và sinh hoạt công cộng [5].

Các tổ chức gọi là phi chính phủ và tổ chức cộng đồng của người Việt có vai trò khá khác so các tổ chức tương đương của nước ngoài. Đầu tiên, họ cho mình là đối tác làm việc trên các dự án phát triển để hỗ trợ cho các chính sách của nhà nước. Thứ hai, họ xem mình là người đi cổ động cho việc cải thiện các dịch vụ của nhà nước. Và cuối cùng, họ xem mình là đại diện cho các nhóm bị thiệt thòi và vận động nhà nước thay đổi chính sách. Trong vai trò này các “NGO Việt” đã cố gắng thương lượng và giáo dục các quan chức nhà nước chứ không phải đối đầu với họ là chiến thuật để mang lại thay đổi. Nói cách khác, các hoạt động của “NGO” Việt Nam là hỗ trợ trực tiếp các chương trình của chính phủ hiện hành hoặc hỗ trợ các mục tiêu chính sách lớn hơn mà nhà nước đưa ra (như phát triển quốc gia, xóa đói giảm nghèo). Tuy nhiên, thời gian qua, “NGO Việt” đã mở rộng vai trò của mình để bao gồm việc vận động cho vai trò của họ. Họ bắt đầu trực tiếp tham gia vào các cơ quan chính phủ để tư vấn cho họ các kỹ thuật mới và các cách để đạt được mục tiêu của chính phủ.

Sự phát triển của các tổ chức hoạt động cộng đồng (CBO) tăng nhanh hơn khả năng phát triển một khung pháp lý vì sự đa dạng của các nhóm Việt Nam. Một số tổ chức hoạt động cộng đồng tương đối độc lập với nhà nước. Dù tình trạng pháp lý của họ là không rõ ràng nhưng họ vẫn thường được để yên. Nhưng họ luôn có nguy cơ bị dẹp bỏ nếu các hoạt động của họ chạm vào các vấn đề nhạy cảm về chính trị [6].

Sự sôi nỗi này trong xã hội Việt Nam đã làm suy yếu hệ thống độc xã hội chủ nghĩa quyền của Việt Nam và mở ra một không gian để các cá nhân và các nhóm nhỏ thách thức hệ thống độc đảng của Việt Nam [7]. Từ giữa đến cuối thập niên 1990, Việt Nam đã chứng kiến những cuộc biểu tình của công chúng về các vấn đề chính trị rất nhạy cảm như tự do tôn giáo, nhân quyền và cải cách dân chủ. Sự ra đời của Internet cung cấp phương tiện cho các cá nhân và các nhóm để vượt qua sự cô lập vật lý và thành lập những mạng lưới xã hội trong không gian mạng [8].

Đến năm 2006 có ít nhất mười một tổ chức có thể được xác định: Liên Minh Dân Chủ, Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, Ủy ban Nhân quyền, Đảng Dân chủ Việt Nam, Hiệp hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam, Ủy ban Cứu quốc, Đảng Dân chủ Nhân dân Việt Nam, Đảng Dân Chủ Thế kỷ 21, Liên Minh Công Nông, Đảng Vì Dân Việt Nam và Đảng Tiến bộ Việt Nam. Nói chung, các nhóm nhỏ và thiếu một chính nghĩa lớn nhưng họ đã đánh dấu bước đầu trong sự xuất hiện của xã hội dân sự chính trị tại Việt Nam. Bởi vì các nhóm này đứng bên ngoài khuôn khổ pháp lý của nhà nước dành cho “NGO” và tổ chức cộng đồng và bị nhà nước coi là bất hợp pháp.

Tóm lại, sự phát triển của xã hội dân sự chính trị ở Việt Nam đã tạo ra một mối liên hệ giữa công luận từ quần chúng và nhà nước độc đảng. Khi Việt Nam mở ra và tích hợp mình trong nền kinh tế toàn cầu, các nhà hoạt động chính trị Việt Nam đã tìm cách gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại bằng cách tranh thủ sự ủng hộ của công chúng về một số vấn đề khác nhau, từ tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, vấn đề môi trường, và tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông.

Mối liên kết giữa các yếu tố trong nước và chính sách đối ngoại của Việt Nam được thảo luận dưới đây trong sáu phần. Phần một mang một cái nhìn tổng quan về các yếu tố chính của khung chính sách đối ngoại của Việt Nam. Phần hai thảo luận về các yếu tố trong nước tác động đến chính sách đối ngoại. Phần thứ ba xác định các vấn đề quan trọng dẫn dắt chính sách đối ngoại của Việt Nam. Phần bốn đánh giá Việt Nam tiến hành như thế nào các mối quan hệ của mình với các nước lớn. Phần năm quan sát các nỗ lực của Việt Nam để thúc đẩy hội nhập quốc tế. Phần sáu kết luận bài viết với một đánh giá các tác động của những phát triển này đối với Hoa Kỳ.

Phần 1: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

Phần này thảo luận bốn chủ đề chính là khung để hình thành chính sách đối ngoại của Việt Nam: độc lập và tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, đấu tranh và hợp tác, chủ động hội nhập quốc tế.

Chủ đề quan trọng đầu tiên của chính sách đối ngoại hiện nay của Việt Nam là sự căng thẳng về sự độc lập và tự chủ. Điều này dựa trên ba di sản lịch sử (1) đề kháng với sự can thiệp của nước ngoài trong thời kỳ thuộc địa và hậu thuộc địa, (2) là một thành viên của phe xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam đã bị kẹt trong làn đạn của tranh chấp Trung-Xô, và (3 ) là một đồng minh của một Liên Xô đang suy tàn trong thời gian thập kỷ dài can thiệp tại Campuchia. Việt Nam đã bị cô lập sau khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991. Theo Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, việc “Việt Nam luôn nhận ra phương châm đối ngoại độc lập [và] tự chủ …” [9] được minh chứng bằng chính sách quốc phòng ba không của: “Việt Nam kiên trì chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự và cũng không đưa ra bất kỳ sự cho phép nào để các nước khác đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các hoạt động quân sự chống lại các nước khác.” [10]

Chủ đề chính thứ hai của chính sách đối ngoại của Việt Nam là đa phương đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Vào ngày 20 Tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị đảng Cộng sản đã thông qua một văn kiện chính sách đột phá được gọi là Nghị quyết số 13 mang tên “Nhiệm vụ và Chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Văn kiện chính sách này hệ thống hóa các mục tiêu đối ngoại của Việt Nam bằng cách ưu tiên cho phát triển kinh tế và định hướng một “chính sách đối ngoại đa phương” với mục tiêu “thêm bạn, bớt thù”. Cụ thể, Nghị quyết 13 muốn Việt Nam thoát khỏi cuộc xung đột ở Campuchia để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, phát triển quan hệ với các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Nhật Bản, Âu Châu và “từng bước” bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ [11].

Các phiên bản kế tiếp của “chính sách đối ngoại đa chiều” của Việt Nam đã diễn ra trong Đại hội toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN tổ chức từ ngày 24-ngày 27 tháng 6, năm 1991. Đại hội VII bấy giờ muốn Việt Nam “đa dạng hóa và đa phương quan hệ kinh tế với tất cả các nước và các tổ chức kinh tế… không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau” [12]. Báo cáo chính trị dành ưu tiên cho quan hệ với Liên Xô, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Cuba, và các “đảng cộng sản và lao động” khác, các” lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội “, Ấn Độ, và Phong trào không liên kết.

Đáng chú ý là Báo cáo chính trị tập trung vào sự phát triển các “quan hệ hữu nghị” với khu vực Đông Nam Á, quan hệ đôi bên cùng có lợi với các nước Bắc Âu và Tây Âu, Nhật Bản, các nước phát triển khác và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ [13]. Việt Nam đã thành công với các mục tiêu này. Trong giai đoạn 1991-95 Việt Nam bình thường hóa quan hệ với tất cả các thành viên của ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu và Hoa Kỳ [14]. Năm 1995, Việt Nam đã mở rộng số lượng từ 23 nước đã có quan hệ ngoại giao trước đó vào năm 1989 lên đến con số 163.

Chính sách đa phương và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được xác nhận qua tất cả các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc tiếp theo từ thứ Tám (1996) đến gần đây nhất. Ví dụ, Báo cáo Chính trị của Đại hội toàn quốc lần thứ Mười Hai được tổ chức vào tháng 1 năm 2016 đã nói: “Để đảm bảo thực hiện thành công chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế … luôn thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển … [và ] đa dạng hóa và đa phương quan hệ bên ngoài.

Chủ đề chính thứ ba của chính sách đối ngoại của Việt Nam là “vừa hợp tác và vừa đấu tranh.” Nghị quyết số 13 của Việt Nam vào tháng 5 năm 1988 giới thiệu các khái niệm về lợi ích dân tộc lần đầu tiên. Sau khi quan hệ với Trung Quốc đã được chuẩn hóa vào năm 1991, việc trở nên rõ ràng rằng hai quốc gia xã hội chủ nghĩa có lợi ích quốc gia khác nhau, đặc biệt là trên Biển Nam Trung Hoa (được thảo luận dưới đây). Sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ vào năm 1995, việc cũng trở nên rõ ràng rằng Việt Nam xã hội chủ nghĩa và Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia hội tụ.

Trong tháng 7 năm 2003, Ủy ban Trung ương đảng cộng sản đã ban hành Nghị quyết số 8, “Ngày Quốc phòng của Tổ quốc trong tình hình mới”. Nghị quyết này lưu ý rằng thường có những đụng chạm và bất đồng với các nước bạn bè và cũng có các lãnh vực có thể hợp tác và những lợi ích chung đối với nước có đối kháng. Nghị quyết số 8 thông qua khái niệm đôi là “đối tượng hoặc đối tác hợp tác” và “đối tượng đấu tranh,” tương ứng với hai chủ thể “đối tác” và “đối tượng” [15]. Trước khi thông qua Nghị quyết số 8, Trung Quốc đã được phân loại như là một đất nước thân thiện, vì nó là xã hội chủ nghĩa và Hoa Kỳ được xem là một đối thủ. Nghị quyết số 8 phê chuẩn sự hợp tác với cả các nước thân thiện và đối lập, và đấu tranh chống lại bất kỳ nước nào làm tổn hại lợi ích quốc gia của Việt Nam. Trong năm 2013, nhân dịp kỷ niệm lần thứ Mười của Nghị quyết số 8, Bộ Chính Trị Đảng CSVN tiến hành xem xét việc thực hiện Nghị quyết này và tái khẳng định chính sách “vừa hợp tác và vừa đấu tranh.”

Chủ đề chính thứ tư của chính sách đối ngoại của Việt Nam là thúc đẩy hội nhập quốc tế. Như đã nói ở trên, Việt Nam đầu tiên thúc đẩy hội nhập kinh tế và sau đó mở rộng việc này để hội nhập chính trị-kinh tế. Năm 2011, Đại hội Đảng toàn quốc XI đã thông qua chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Đại hội toàn quốc lần thứ Mười Hai và gần đây nhất vào năm 2016 đã nói: “Để đảm bảo thực hiện thành công chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế … [Việt Nam phải] chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế …“.

Phần 2: CÁC YẾU TỐ TRONG NƯỚC

Phần này bàn về ba yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định chính sách ngoại giao của Việt Nam: (1) các nguồn gốc về sự chính danh chính trị của nhà nước độc đảng của Việt Nam, (2) bè phái trong tầng lớp lãnh đạo ĐCSVN, và (3) các diễn viên mới trong nước.

Thứ nhất, Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) trước đây mang tên Cộng hòa Dân chủ Việt Nam (DRV) được thành lập vào năm 1954 sau khi Việt Nam bị chia cách. Năm 1975, Việt Nam được thống nhất. Kể từ năm 1954, ĐCSVN đã dựa trên ba nguồn gốc để tuyên bố tính chính danh chính trị của họ là (1) chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc, (2) họ có quyền là hợp lý và (3) là do công lao của họ.

Cộng sản VN được thành lập vào năm 1930 và huy động thành công nhân dân Việt Nam đứng lên chống lại và liên tiếp đánh bại sự can thiệp của nước ngoài, như đã nói ở trên. Cộng sản VN đã kêu gọi lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc để vượt qua những khác biệt địa phương và tôn giáo. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, những kêu gọi dân tộc chủ nghĩa của ĐCSVN đều bị rơi vào tai điếc của người Việt sinh sống ở cả trong và ngoài nước, những người đã ủng hộ miền Nam Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975); họ đã bị bôi nhọ là con rối của Mỹ [16].

Năm 1976, Lê Duẩn, lãnh đạo đảng 1960-86, đã tuyên bố rằng, “đất nước này và chủ nghĩa xã hội là một ” [17]. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1976-86, lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc, tuy vẫn còn là nguồn quan trọng về sự chính danh của chế độ, đã bị vượt qua bởi sự nhấn mạnh của ĐCSVN về tính chính danh hợp lý. Trong thời gian này ĐCSVN áp đặt mô hình tổ chức xã hội chủ nghĩa độc tôn lên phía Nam. Điều này đã được minh chứng bằng việc thông qua Kế hoạch năm năm lần thứ 2 của Việt Nam (1976-1981) và một Hiến pháp mới được ban hành vào năm 1980.

Sau 1986, ý thức hệ Mác-Lênin đã bị suy giảm khi ĐCSVN bắt đầu tuyên truyền cho “tư tưởng Hồ Chí Minh” để củng cố tính chính danh của mình [18]. Việc ĐCSVN tập trung vào đổi mới kinh tế đã nhanh chóng trở thành nguồn chính về tính chính danh của chế độ, đó là hiệu suất của họ. Trong những năm 1990 tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam đã tăng trưởng khoảng bảy phần trăm một năm và trung bình 6,47 phần trăm từ năm 2000 đến năm 2016.

Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại là phe nhóm trong tầng lớp lãnh đạo. Mặc dù có sự thay đổi trong quan hệ “nhà nước-xã hội” do sự tăng trưởng bùng nổ của các tổ chức quần chúng và việc một khu vực tư nhân phát triển như một hệ quả của tăng trưởng kinh tế cao, các hoạt động bên trong cơ cấu quyền lực của Việt Nam vẫn còn che kín. Các học giả và các nhà phân tích đã nhìn vào các phe nhóm như một dụng cụ tìm kiếm để phân tích những thay đổi về chính sách.

Trong Chiến tranh Lạnh các học giả và các nhà phân tích tranh luận liệu có phe thân Liên Xô và ủng hộ Trung Quốc trong ĐCSVN [19]. Sau khi đất nước thống nhất, sự quan tâm học thuật lại sành điệu quay sang xem coi có phe bảo thủ hay cải cách trong đảng cộng sản không; học giả khác lại thừa nhận là có ba nhóm: nhóm giáo điều, nhóm lợi ích và nhóm cải cách [20]. Khi tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam với Trung Quốc ở Biển Đông là trung tâm (xem dưới đây), các học giả và các nhà phân tích đã tranh luận làm thế nào để mô tả sự sắp xếp, lãnh đạo trong nhà nước độc đảng của Việt Nam. Một số lập luận rằng họ thấy có phe thân Trung Quốc và phe thân Hoa Kỳ. Tác giả này [Thayer?] đã lập luận rằng không có phe ủng hộ Trung Quốc và phe ủng hộ Mỹ tại Việt Nam va lãnh đạo được chia trên cơ sở làm thế nào để quản lý các mối quan hệ với hai cường quốc này (xem thảo luận trên HD 981 cuộc khủng hoảng dưới đây).

Trước Đại hội toàn quốc lần thứ Mười Hai của ĐCSVN, rõ ràng rằng đã có sự chia rẽ trong lãnh đạo của Việt Nam trên vấn đề tập trung dân chủ và tập thể lãnh đạo của họ. Trong 10 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Văn phòng Thủ tướng Chính phủ (và bộ máy nhà nước) được nổi lên như là một tổ chức mạnh mẽ hơn ĐCSVN. Thủ tướng Chính phủ chủ trì một thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao và đưa ra một “chính sách đầu tiên của Việt Nam” nhằm xây dựng các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ được gọi là các tập đoàn. Kết quả là một mạng lưới “chủ nhân-khách hàng” đã nổi lên dưới thời Dũng và một số người được hưởng lợi từ chính sách đó đã trở thành những kẻ tham nhũng.

Trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cố gắng kéo dài thời gian giữ chức của mình bằng cách tìm kiếm sự miễn trừ đặc biệt về hạn chế tuổi và giới hạn nhiệm kỳ để trở thành Tổng Bí Thư đảng thì một liên minh “bất cứ là gì nhưng không có Dũng” được hình thành đứng sau người nắm chức vụ lãnh đạo đảng Nguyễn Phú Trọng [21]. Dũng thua cuộc và bị cho về hưu. Trọng được bổ nhiệm thêm một nhiệm kỳ thứ ba là điều chưa từng có với kỳ vọng rằng ông này sẽ từ chức khi một sự thay thế phù hợp đã được tìm thấy.

Yếu tố thứ ba ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại là sự xuất hiện trong nước một diễn viên mới gồm cả cán bộ hưu trí và các thành viên của những gì có thể được gọi một cách lỏng lẻo là xã hội dân sự chính trị.

Kể từ khi đất nước thống nhất năm 1976, vai trò chính trị của các đảng viên, cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu và các cựu chiến binh quân đội đã trở nên nổi bật hơn, đặc biệt là khi nguồn gốc của sự chính danh chính trị của ĐCSVN đã bị thay đổi [22]. Ngày càng nhiều các cán bộ về hưu và các mạng lưới quan chức hưu trí đã hoạt động đưa kiến ​​nghị bằng văn bản và thư ngỏ đến các nhà lãnh đạo hàng đầu của đảng và nhà nước về một số vấn đề nóng về chính sách, gồm các vấn đề môi trường và mối quan hệ với Trung Quốc. Như sẽ được thảo luận trong phần ba dưới đây, cán bộ hưu trí đóng một vai trò nổi bật trong việc phản đối khai thác bauxite và phản đối vi phạm của Trung Quốc về chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông.

Giữa các năm 2004-06, dựa trên sự sôi nỗi của hoạt động các tổ chức được thảo luận trên đây, một con số chưa từng có về các tổ chức chính trị được thành lập gồm một số ít các cá nhân ngoài đảng. Các nhóm chính trị mới phát huy dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và quyền của người lao động và đối đầu với nhà nước độc đảng của Việt Nam [23].

Năm 2006, một phát triển mới quan trọng là các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ và các nhóm chính trị kết hợp lại thành một mạng lưới, đánh dấu một bước phát triển mới trong chính trị Việt Nam [24]. Ngày 06 tháng Tư 2006, 116 người đã ra tuyên cáo đòi “Quyền được tự do lập hội chính trị” mà họ phân phối trên toàn Việt Nam qua các Internet. Ngày 8 tháng Tư năm 2006, 118 người đã ban hành “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Vietnam” [25]. Những phát biểu kêu gọi nhà nước Việt Nam tôn trọng các quyền cơ bản về con người và tự do tôn giáo và cho phép các công dân được tự do liên kết và hình thành các đảng chính trị [26]. Những khiếu kiện ủng hộ dân chủ được biết là Khối 8406, theo ngày tuyên ngôn thành lập của họ.

Khối 8406 đại diện cho một mạng lưới đa dạng gồm các chuyên gia chủ yếu tập trung ở các trung tâm đô thị trong nước, đặc biệt là ở Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ. Khối 8406 công bố ấn phẩm hai tuần một lần, Tự Do Ngôn Luận trong cả hai định dạng bản in và điện tử. Đến cuối năm của các nhà quan sát nước ngoài báo cáo rằng các cơ sở hỗ trợ cho Khối 8406 đã mở rộng đến hơn hai ngàn thành viên, nhiều người ở độ tuổi dưới ba mươi [27].

Trong tháng 8 năm 2006, Khối 8406 công bố công khai một chương trình bốn giai đoạn cho dân chủ trong đó có việc khôi phục các quyền tự do dân sự, thành lập các đảng phái chính trị, soạn thảo một Hiến pháp mới và các cuộc bầu cử dân chủ cho các đại biểu Quốc hội [28]. Tiếp theo, vào tháng 10 năm 2016, Khối 8406 đã đưa ra một bức thư ngỏ đến các nhà lãnh đạo chính phủ tham dự hội nghị thượng đỉnh thường niên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) tại Hà Nội vào cuối năm đó. Kháng thư này yêu cầu sự giúp đỡ của họ trong việc thúc đẩy dân chủ ở Việt Nam. Một thời gian ngắn sau, Khối 8406 thành lập một liên minh với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và Liên minh Việt Nam Dân chủ và Nhân quyền.

Sau Hội nghị thượng đỉnh APEC, các cơ quan an ninh bắt đầu trấn áp Khối 8406 bằng cách bắt giữ một số lãnh đạo cao cấp của Khối. Họ đã được đưa ra xét xử một cách chiếu lệ và bị cầm tù. Kết quả là vào năm 2009 Khối 8406 đã bị tan rã.

Tóm lại, chương trình cải cách Đổi Mới của Việt Nam đã chuyển nguồn gốc tính chính danh hợp pháp của ĐCSVN từ chủ nghĩa dân tộc và quyền hạn pháp lý sang thành tích xây dựng. Đổi Mới đã mở rộng phạm vi cho phe nhóm lãnh đạo trong bộ máy nhà nước đạt được quyền kiểm soát nhiều hơn các nguồn lực và làm suy yếu vai trò bá chủ của ĐCSVN. Đảng viên, cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu và các cựu chiến binh quân sự ngày càng bày tỏ quan điểm của họ về cả chính sách trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, tiếng nói từ bên ngoài cơ cấu quyền lực truyền thống bắt đầu khuấy động cho dân chủ, tự do tôn giáo và các mối quan tâm khác.

Phần 3: NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH DẪN DẮT CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

Trong suốt thời gian tranh chấp Trung-Xô (1956-1989), lãnh đạo chính trị đã chủ đạo ra quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam mà không cần quan tâm đến công luận. Như đã nói ở trên, năm 2006 hoạt động nhân quyền ủng hộ dân chủ đã thực hiện các nỗ lực lớn đầu tiên tại Việt Nam để liên kết cải cách chính trị trong nước với chính sách đối ngoại khi họ kiến ​​nghị đến các nhà lãnh đạo của chính quyền các nước dự hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hà Nội.

Phần này xem xét lý do tại sao mối quan hệ với Trung Quốc đã trở thành yếu tố định hướng quan trọng trong nước tác động lên chính sách đối ngoại hiện nay của Việt Nam. Các nhà hoạt động ở Việt Nam đã nắm bắt ít nhất hai vấn đề chính liên quan đến mối quan hệ với Trung Quốc là vấn đề môi trường trong khai thác tài nguyên và mối đe dọa của Trung Quốc về chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Khi quan hệ với Trung Quốc trở nên nổi bật trong chính trị trong nước thì một số vấn đề có thứ tự nhỏ hơn đã trở thành món kèm theo trong tranh cãi này, chẳng hạn như thặng dư của Trung Quốc rất lớn thương mại, hàng kém chất lượng của Trung Quốc, chất lượng thấp của các dự án cơ sở hạ tầng, và việc nhập khẩu lao động Trung Quốc vào Việt Nam.

Dư luận về quan hệ với Trung Quốc đã trở nên độc hại và nó đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với tính chính danh chính trị của chế độ độc đảng của Việt Nam. Các nhà hoạt động chống Trung Quốc cáo buộc các nhà lãnh đạo của họ không đứng lên mạnh mẽ, đủ để chống lại quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông. Điều này đã cắt xén tuyên bố của chế độ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là một trong những nguồn gốc chính của họ về tính chính danh chính trị.

Tranh cãi về dự án khai mỏ Bauxite. Năm 2009 các nhà lãnh đạo của Việt Nam đã phải đối mặt với một sự lan rộng của liên minh ưu tú [học giả và trí thức] phản đối kế hoạch phát triển công nghiệp khai thác mỏ bauxite ở miền trung Việt Nam của họ với sự hợp tác của một công ty Trung Quốc. Vấn đề môi trường liên quan đến ô nhiễm độc hại của đường thủy hạ lưu ở các khu vực sinh sống của dân tộc thiểu số trở nên gắn chặt với vấn đề an ninh quốc gia về việc cho phép sự hiện diện của Trung Quốc ở Tây Nguyên của Việt Nam.

Năm 2006 Việt Nam đã ban hành một cuộc đấu thầu để khai thác bauxite. Công ty Nhôm Trung Quốc (Chalco) hợp tác với Tập Đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã giành chiến thắng trong cuộc đấu giá. Một thỏa thuận khung giữa hai công ty được ký kết vào tháng 11 năm 2006 bên lề Hội nghị Thượng đỉnh APEC và được sự chứng kiến ​​của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào [29]. Chalco đồng ý xây dựng hai nhà máy alumin, một tại Nhân Cơ, tỉnh Đắk Nông và một tại Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng.

Năm 2008 một số lượng nhỏ các nhà môi trường và các nhà khoa học Việt lên tiếng lo âu trong kế hoạch phát triển khai thác bauxite trong sự vắng mặt của một nghiên cứu tác động môi trường. Tiếng nói của họ đã bị phần lớn gạt đi. Sau đó, vào tháng Giêng năm 2009, vấn đề bauxite đột nhiên trở thành một vấn đề quốc gia khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên đã đưa ra ba thư ngỏ (ngày 05 tháng 1, 09 tháng 4 năm 2009 và ngày 20 tháng 5 năm 2009). Ông lập luận rằng việc khai thác bauxite sẽ hủy hoại môi trường, di dời người dân tộc thiểu số bản địa và, đáng kể nhất là đe dọa an ninh quốc gia với các dòng của công nhân Trung Quốc vào Tây Nguyên chiến lược và bằng cách cung cấp cho Trung Quốc một đòn bẩy kinh tế.

Ngày 30 tháng tư năm 2009 một bản kiến ​​nghị chống bauxite có chữ ký của 135 học giả và trí thức đã được gửi đến Quốc hội. Kiến nghị này đã nói: “Trung Quốc đã nổi tiếng trong thế giới hiện đại như là một quốc gia gây ô nhiễm lớn nhất và các vấn đề khác.” [30]

Ngày 07 tháng năm năm 2009 kỷ niệm 55 năm trận Điện Biên Phủ, Tướng Giáp nói với các nhà lãnh đạo đến chúc sức khoẻ ông, “Tôi hy vọng các ông chú ý đến việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Đây là một vùng chiến lược của đất nước, rất quan trọng về quốc phòng và an ninh, không chỉ đối với Việt Nam nhưng cả đối với Đông Dương” [31]. Giáp đã có sự tham gia của Tướng về hưu Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ tại Trung Quốc, người đã viết một bức thư ngỏ kêu gọi Bộ Chính trị xem xét lại kế hoạch để cho Trung Quốc thiết lập một sự hiện diện thường trực tại cao nguyên miền Trung [32].

Theo một nghiên cứu chi tiết của những tranh cãi bauxite:

Các cuộc tranh luận công khai về việc khai thác bauxite phát triển thành một cuộc tranh cãi quốc gia và quốc tế. Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác gần như ngay lập tức chuyển động để kiểm soát và trấn áp những cuộc tranh luận công cộng. biện pháp của họ là vừa trả lời và đàn áp. Việc đó bao gồm một lệnh cấm báo chí trong nước được viết thêm về chủ đề khai thác bauxite trong tháng Giêng năm 2009, và sau đó là việc bắt giữ các blogger và đưa ra các biện pháp đàn áp trực tiếp hơn trong nửa cuối năm 2009. Tuy nhiên, phản ứng của nhà nước cũng bao gồm các loại đối thoại khác nhau với các nhà phê bình dự án, bao gồm cả một cuộc hội thảo kín do trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và chủ trì bởi hai thành viên Bộ chính trị vào tháng hai năm 2009, một “Hội thảo khoa học” phối hợp tổ chức bởi Liên minh các Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Việt Nam của chính phủ và Bộ Công Thương trong tháng Tư năm 2009, và một cuộc tranh luận gay gắt về khai thác bauxite tại cuộc họp hai năm một lần của Quốc hội vào tháng Năm và tháng Sáu 2009 [33].

Đến giữa năm 2009, mạng lưới chống bauxite của năm trước đó đã phát triển thành một liên minh quốc gia bao gồm cả môi trường, người dân địa phương, các nhà khoa học, các nhà kinh tế, cán bộ quân đội nghỉ hưu và cựu chiến binh, cán bộ nhà nước đã về hưu, các nhà khoa học xã hội, khoa học khác và trí thức, các thành viên các phương tiện truyền thông, và đại biểu Quốc hội. Những nhà phê bình đều là tinh hoa chính thống. Họ được tham gia bởi các bloggers, các nhà đối kháng chính trị và lãnh đạo tôn giáo đại diện của giáo hội bị cấm là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, của các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và có sự tham gia của các nhóm dân [oan] có tranh chấp đất đai với chính quyền địa phương tại Hà Nội từ những năm trước.

Ngày 3 tháng Năm 2009, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài Gòn, đã đưa ra một Thư Mục Vụ lên án khai thác tài nguyên thiên nhiên mà gây thiệt hại cho môi trường và kêu gọi người Công giáo phản đối kế hoạch phát triển như thế [34]. Vào tháng Sáu, luật sư Cù Huy Hà Vũ đã đệ đơn kiện Thủ tướng tại Tòa án Nhân dân Hà Nội [35]. Khi Tòa án bác bỏ yêu cầu này với lý do họ không có thẩm quyền trong vấn đề này, Cù Huy Hà Vũ đã nộp đơn kháng cáo lên Tòa án Nhân dân Tối cao ngày 03 tháng 7. Việc đối đầu pháp lý kiểu anh hùng rơm này cũng đã bị bác bỏ [36].

Cuộc đấu tranh chống dự án bauxite năm 2009 là một thách thức mới cho Nhà nước. Lần đầu tiên năng lực của chính phủ về các dự án phát triển quy mô lớn bị đặt vấn đề bởi một liên minh rộng rãi của giới tinh hoa chính trong cả nước bao gồm cả các nhà môi trường, các nhà khoa học, các nhà kinh tế, khoa học xã hội và quan chức đã về hưu [37]. Ngoài ra các nhà phê bình trong nước còn tăng độ nhạy cảm chính trị khi cáo buộc rằng sự tham gia của Trung quốc vào khai thác bauxite là một vấn đề an ninh quốc gia.

Tóm lại, tranh cải về dự án khai thác bauxite đại diện cho một thách thức lớn đối với lý lẽ “hiệu năng” [tôi làm được việc] của sự chính danh của nhà nước độc đảng của Việt Nam. Kết quả là, chính phủ đã buộc phải thay đổi kế hoạch của mình để đếm xỉa đến những lo ngại về môi trường và các tác động đối với dân tộc thiểu số. Chính phủ đồng ý cho phép Quốc hội, các Bộ và chính quyền địa phương được tiến hành đánh giá thường xuyên dự án Bauxite để xem nó đã được thực hiện như thế nào. Tuy nhiên, Thủ tướng và các quan chức khác của Chính phủ khẳng định rằng việc khai thác bauxite là “một chủ trương lớn của đảng và nhà nước” và vẫn sẽ tiến hành [38]. Vào tháng Năm, trong một cử chỉ để làm kiểng, sáu công ty Trung Quốc bị phạt vì không có giấy phép cho người lao động Trung Quốc làm việc tại các dự án Bauxite [39].

Tranh chấp Biển Đông. Không có chính sách đối ngoại nào đã làm dư luận trong nước lớn lên mạnh mẽ như tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam đối với Trung Quốc trên Biển Đông. Các tranh chấp Biển Đông nổi lên vào năm 1992 ngay sau khi quan hệ với Trung Quốc Việt Nam được bình thường hóa sau một thập kỷ dài ghẻ lạnh vì cuộc xung đột Campuchia.

Tháng Hai năm 1992, Quốc hội Nhân dân Trung Quốc đã thông qua Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp đã tuyên bố chủ quyền trên tất cả các đảo ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Luật pháp Trung Quốc giờ đây đã đặt nước này trên con đường va chạm với Việt Nam về chủ quyền ở Biển Đông. Va chạm này là sự xuất hiện của một loạt các sự cố hàng hải trong năm 1990 kết tủa bởi những nỗ lực của Trung Quốc nhằm khai thác dầu trong vùng biển thuộc Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoặc EEZ [40].

Mãi cho đến năm 2007, tuy nhiên, sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông đã trở thành một vấn đề trong nước. Vào cuối năm 2007, Việt Nam đã chứng kiến ​​lần đầu tiên các cuộc biểu tình thường xuyên của dân chúng tại Hà Nội và sau đó là ở các trung tâm đô thị khác để phản đối các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, như quấy rối ngư dân Việt Nam. Nói chung chế độ cho thấy một mức độ khoan dung, cho phép người biểu tình để tỏ thái độ bên ngoài Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội hoặc Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh, trước khi họ bị hộ tống ra khỏi đó bởi các quan chức công an.

Từ năm 2007 đến nay, một số blogger đã dùng Internet để chỉ trích không chỉ Trung Quốc mà cả chính phủ của họ vì đã không đứng lên chống lại Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Trong thời gian này, khi Trung Quốc quấy nhiễu ngư dân Việt Nam hoặc khi ngư dân Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), chính phủ phản ứng bằng cách đưa ra các phản đối ngoại giao. Thỉnh thoảng Việt Nam triển khai cảnh sát Biển của mình để truy đuổi ngư dân Trung Quốc ra khỏi vùng biển của Việt Nam và “lên gân” đối với các tàu Hải cảnh của Trung Quốc vào hoạt động trong vùng EEZ của Việt Nam.

Khủng hoảng giàn khoan HD 981. Không có sự cố nào nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng nổ ra vào đầu tháng Năm đến giữa tháng 7 năm 2014 khi Trung Quốc đưa giàn khoan dầu mỏ khổng lồ Hải Dương 981 (HD 981) vào trong vùng EEZ của Việt Nam đi kèm với một hạm đội tàu chiến, tàu Cảnh sát biển, tầu kéo và tàu đánh cá gồm chung là hơn một trăm tầu vào ngày đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng. Trung Quốc cũng đã cử máy bay quân sự qua bay khu vực.

Việt Nam phản ứng bằng cách gửi nhiều tàu Cảnh sát Biển nhỏ hơn và tầu Kiểm ngư ra đối đầu với Trung Quốc và ra lệnh cho họ phải ra khỏi vùng EEZ của Việt Nam. Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ bằng cách đâm tàu ​​vào tàu thuyền Việt Nam và sử dụng vòi rồng cực mạnh để phá nát các cột vô tuyến truyền tin trên tàu của Việt Nam. Tàu thực thi pháp luật hàng hải của Việt Nam hàng ngày tiếp tục các cuộc đối đầu không cân xứng của mình, nhưng thêm một đòn mới là đưa các nhà báo nước ngoài lên tàu của mình để quay phim và đăng tải sự cố trên biển này. Việt Nam đã đạt được một cuộc chiến tuyên truyền toàn cầu chống Trung Quốc khi bộ phim được phát sóng cho thấy các tàu lớn của Trung Quốc đã cố tình đâm tàu ​​thuyền Việt nhỏ hơn.

Cuộc khủng hoảng trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục trong sáu tuần. Trong giai đoạn này Việt Nam đã thông qua một tư thế phòng thủ bằng cách hàng ngày giữ tàu chiến của mình né xa khu vực đối đầu. Việt Nam cũng đã cố gắng kích hoạt trong vô vọng đường dây nóng với Trung Quốc. Hơn ba mươi lần Việt Nam đã liên lạc với TQ trong tháng Năm nhưng chưa bao giờ nhận được trả lời kể cả lần yêu cầu Trung Quốc gửi một phái viên đặc biệt qua VN.

Gần một tuần sau khi Trung Quốc triển khai HD 981, Trung ương ĐCSVN triệu tập Hội nghị lần thứ Chín của mình với một chương trình nghị sự dài từ 08 đến ngày 14 tháng 5. Mặc dù chương trình nghị sự bao gồm một số vấn đề trong nước nhưng cuộc họp đã bị lu mờ bởi khủng hoảng hàng hải ngày càng lớn [41]. Một cuộc tranh luận nóng đã nổ ra về việc Việt Nam cần đáp ứng các thách thức của Trung Quốc về chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, các thông cáo chính thức ban hành sau khi hội nghị trung ương chốt giải pháp là giám sát chặt chẽ việc bế tắc hàng hải và kêu gọi một giải pháp hòa bình cho tranh chấp. Điều này đã cho ấn tượng rằng “mọi chuyện vẫn bình thường” và không đưa ra gợi ý nào về những bất đồng trong nội bộ đảng về chính sách Biển Đông.

Vào ngày 11, trong khi Ủy ban Trung ương đang họp, các cuộc biểu tình hòa bình chống Trung Quốc đã diễn ra tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực đô thị khác là những nơi mà truyền hình trong nước phủ sóng các cuộc đối đầu. Nghiêm trọng hơn, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người lao động Việt Nam ở ba khu công nghiệp ở các tỉnh Hà Tĩnh, Bình Dương, Đồng Nai và đã biến thành bạo lực vào ngày 13-14. Gần bốn trăm doanh nghiệp của người Trung Quốc (và của các người nước ngoài khác làm chủ) đã bị hư hỏng nặng hoặc bị đốt cháy thành bình địa. Trung Quốc đáp lại bằng cách di tản hàng ngàn công nhân của mình (ra khỏi VN), yêu cầu bồi thường và áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế. Du lịch Trung Quốc đến Việt Nam giảm mạnh.

Sau Đại Hội lần thứ Chín, và khi đối mặt với bức tường ngoại giao Trung Quốc, áp lực tiếp tục nổi lên bên trong đảng và ngoài xã hội là Việt Nam phải có hành động pháp lý chống lại Trung Quốc. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành người ủng hộ công khai nhất cho hành động này, nhưng nói rằng thời gian là rất quan trọng. Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã lên tiếng tại cuộc Đối thoại Shangri-La có hành động pháp lý là “giải pháp cuối cùng”. Vào ngày 18 tháng 6 Trung Quốc đã phái Ủy Dương Khiết Trì đến Hà Nội để bực dọc tham vấn với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.

Vào đầu tháng Bảy, Bộ Chính trị ĐCSVN đã bỏ phiếu triệu tập một cuộc họp đặc biệt của Ủy ban Trung ương để thảo luận về cuộc khủng hoảng HD 981 và xem xét hành động pháp lý quốc tế chống lại Trung Quốc và, theo báo cáo, hội nghị đã xem xét bỏ chính sách quốc phòng “ba không.” Ngày 15, Trung Quốc thông báo rằng họ đã rút giàn khoan HD 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam. Việc này đã làm tan đi cơn gió cho cánh buồm con tầu của những người kêu gọi một cuộc họp Ủy ban Trung ương đặc biệt. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng Bảy, sáu mươi mốt nhân vật hàng đầu của Việt Nam đã ký một bức thư ngỏ chỉ trích chính phủ về cách xử lý mối quan hệ với Bắc Kinh và kêu gọi hành động pháp lý và làm giảm đi sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc bằng cách rời quỹ đạo của Trung Quốc (thoát Trung).

Hành động thu hồi HD 981 một tháng sớm hơn so với công bố của Trung Quốc đã làm dịu cuộc khủng hoảng và dẫn đến sự trở lại của ngoại giao và những nỗ lực khó khăn để khôi phục lòng tin chính trị [42].

Cuộc khủng hoảng HD 981 năm 2014 đã chứng minh tính hiệu quả của chính sách vừa đấu tranh và vừa hợp tác với Trung Quốc của Việt Nam. Cuộc đối đầu hàng ngày giữa các tàu thực thi pháp luật hàng hải của Trung Quốc và Việt đã chứng minh rằng Việt Nam có khả năng “đấu tranh chống lại” Trung Quốc, chứng tỏ quyết tâm trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã quan tâm ngăn chặn bất kỳ sự cố hàng hải nào leo thang dẫn một cuộc đụng độ vũ trang với lực lượng quân sự trên cơ của Trung Quốc và / hay kích động Trung Quốc đánh chiếm một thực thể đảo mà Việt Nam hiện nay đang chiếm đóng. Các hành vi phản ứng “vừa hợp tác và vừa đấu tranh” của chính phủ được hiệu chuẩn cẩn thận được thiết kế để nhấn mạnh chủ quyền của Việt Nam mà không làm kích động Trung Quốc.

Giải pháp cho cuộc khủng hoảng HD 981 đã không làm được gì nhiều để làm giảm nhẹ tình cảm chống Trung Quốc đang lan rộng trong công chúng Việt. Đảng-Nhà nước Việt đáp lại dư luận bằng cách chủ động hơn trong việc cho phép Bộ Ngoại giao đưa ra các phản đối đối với các hành động của Trung Quốc được coi là vi phạm chủ quyền, lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam hay [gây hại đến] hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Sách giáo khoa tiếng Việt đang dần được xem lại để lấy đi các tài liệu lịch sử chính thức của quan hệ Trung-Việt. Các phương tiện truyền thông Việt Nam đã được trao nhiều không gian hơn để đăng tải những thông tin phê phán Trung Quốc.

Phần 4: ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI CÁC CƯỜNG QUỐC LỚN

Chính sách “đa phương và đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại của Việt Nam là chiến lược đàm phán các thỏa thuận hợp tác chiến lược với một loạt các quốc gia. Từ năm 2001 đến 2016 Việt Nam đã thành công đạt thỏa thuận “đối tác chiến lược” với mười sáu nước và thỏa thuận quan hệ “đối tác toàn diện” với mười nước khác, trong đó có Australia và Hoa Kỳ. Các thỏa thuận này có phạm vi rộng rãi và bao gồm các điều khoản khác cho hợp tác trong các vấn đề ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Các thỏa thuận này cũng bao gồm một cơ chế chung để quản lý các mối quan hệ song phương và họ thường kèm theo Kế hoạch hành động nhiều năm.

Việt Nam tìm cách tránh bị kẹt ở giữa sự đối đầu chiến lược giữa một bên là Trung Quốc đang lên và một bên là Hoa Kỳ bằng cách theo đuổi một sự cân bằng đa cực trong số năm cường quốc – Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Mục đích của quan hệ đối tác chiến lược là cung cấp cho mỗi nước một phần bằng nhau ở Việt Nam để ngăn việc Việt Nam bị kéo vào quỹ đạo của một đối thủ và để Việt Nam có thể duy trì quyền tự trị chiến lược của mình. Các phần dưới đây sẽ lướt nhanh xem lại quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam với các nước lớn.

Nga. Việt Nam đàm phán Hiệp định đối tác chiến lược đầu tiên với Liên Bang Nga vào tháng 3 năm 2001 trong chuyến thăm của Tổng thống Vladimir Putin tại Hà Nội [43]. Thỏa thuận hợp tác rộng rãi này gồm tám lĩnh vực chủ yếu: chính trị-ngoại giao, thiết bị quân sự và công nghệ, hợp tác dầu khí, hợp tác năng lượng thủy điện và điện hạt nhân, thương mại và đầu tư, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và du lịch. Vào tháng Bảy năm 2012, Việt Nam và Nga tăng quan hệ đối tác chiến lược lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện nhân chuyến thăm chính thức Moscow của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang [44].

Bề rộng của quan hệ Việt Nam-Nga đã được minh họa trong tháng 4 năm 2015 khi Việt Nam và Nga đã ký tám thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực năng lượng (dầu mỏ, khí đốt, và hạt nhân), đầu tư, ngân hàng (sử dụng đồng tiền quốc gia để thúc đẩy thương mại song phương), chăm sóc sức khỏe, vận chuyển (hàng không, đường sắt) và nông nghiệp [45].

Vũ khí Nga bán cho Việt Nam là phần lớn nhất và quan trọng nhất của đối tác chiến lược, tiếp theo là năng lượng (dầu mỏ, khí đốt, thủy điện và điện hạt nhân). Liên bang Nga là nhà cung cấp lớn nhất của Việt Nam về thiết bị quân sự và công nghệ. Sự trợ giúp này cho phép Việt Nam hiện đại hóa các lực lượng vũ trang của mình và tăng cường năng lực của mình để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam [46].

Nhật Bản. Tháng Mười năm 2006, hai Thủ tướng Shinzo Abe và Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra một tuyên bố chung hướng tới một quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á [47]. Một năm sau đó trong chuyến thăm chính thức của Chủ Tịch Nước Việt Nam, Nhật Bản và Việt Nam đã đưa ra một Tuyên bố chung gồm một Chương trình bốn mươi bốn điểm “Hướng tới quan hệ đối tác chiến lược (Strategic Patnership)”. Chương trình này được chia thành bảy lĩnh vực nội dung: giao lưu, hợp tác trong đối thoại chính sách, an ninh, quốc phòng; đối tác kinh tế toàn diện; hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách hành chính; khoa học và Công nghệ; biến đổi khí hậu, môi trường, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ; hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước; và hợp tác trong các hoạt động quốc tế [48].

Tháng Ba năm 2014, Việt Nam và Nhật nâng quan hệ song phương lên tầm “đối tác chiến lược mở rộng” (Extensive Strategic Patnership).

Ấn Độ. Vào tháng Bảy năm 2007, Ấn Độ và Việt Nam đã thông qua một Tuyên bố chung 33 điểm đối tác chiến lược gồm năm lĩnh vực hợp tác chính: chính trị, quốc phòng, an ninh hợp tác; hợp tác kinh tế gần gũi hơnvà tham gia thương mại; hợp tác khoa học và công nghệ, hợp tác văn hóa và kỹ thuật và hợp tác đa phương và khu vực [49].

Đối tác chiến lược Việt Nam-Ấn Độ tập trung vào sáu lĩnh vực hợp tác: (1) đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng; (2) cung cấp quốc phòng, dự án chung, hợp tác đào tạo và trao đổi thông tin tình báo; (3) thăm viếng giao lưu giữa các cơ sở quốc phòng và an ninh của họ; (4) xây dựng năng lực, hỗ trợ kỹ thuật và chia sẻ thông tin trong đó đặc biệt chú ý đến an ninh của các tuyến đường biển, chống cướp biển, ngăn ngừa ô nhiễm và tìm kiếm cứu nạn; (5) chống khủng bố và an ninh mạng; và (6) an ninh phi truyền thống [50].

Năm 2016, trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Modi tại Hà Nội, Việt Nam và Ấn Độ tăng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược toàn diện.

Trung Quốc. Tháng Sáu năm 2008, mười bảy năm sau khi bình thường hóa quan hệ, các nhà lãnh đạo của Việt Nam và Trung Quốc đã đồng ý nâng cao quan hệ song phương lên tầm “đối tác chiến lược”. Một năm sau lại được nâng cấp thành “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược” [51]. Đến năm 2013 Việt Nam và Trung Quốc tăng quan hệ song phương lên “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, chỉ định cao nhất trong số tất cả các đối tác chiến lược của Việt Nam.

Là đối tác chiến lược, Trung Quốc và Việt Nam đã phát triển một mạng lưới dày đặc của đảng, nhà nước, quốc phòng và các cơ chế đa phương để quản lý các mối quan hệ song phương trong đó có một Ban chỉ đạo ở mức Phó Thủ tướng. Có một thời gian gián đoạn trong quan hệ song phương trong thời gian cuộc khủng hoảng HD 981. Sau khi căng thẳng được giải tỏa hai bên tiếp tục trao đổi chính trị, ngoại giao và quân sự cấp cao. Ban Chỉ Đạo Trung Quốc-Việt Nam, cơ chế phối hợp cấp độ cao nhất, giám sát các mối quan hệ song phương, đã tiếp tục gặp gỡ.

Hoa Kỳ. Giữa năm 2010 và 2013 các quan chức Việt Nam và Mỹ nghiền ngẫm ý tưởng một thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược. Cuối cùng cả hai bên lùi lại từ cam kết này và quyết định thay vào đó thông qua một Tuyên bố chung về “quan hệ đối tác toàn diện” [Comprehensive Partnership] trong chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Washington vào tháng Bảy 2013 [52].

Quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Mỹ về cơ bản hệ thống hóa thành chín khu vực chính về hợp tác lâu dài: chính trị và quan hệ ngoại giao, thương mại và quan hệ kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và sức khỏe, vấn đề di sản chiến tranh, quốc phòng, an ninh, bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và văn hóa, thể thao, và du lịch [53].

Tuyên bố chung này hợp nhất các cơ chế hợp tác song phương hiện có như Hội đồng Hiệp định Thương mại và Đầu tư khung; Ủy ban hỗn hợp về hợp tác khoa học và công nghệ; Đối thoại Chính sách Quốc phòng; và chính trị, an ninh, quốc phòng và đối thoại, cũng như một cơ chế đối thoại chính trị và ngoại giao mới giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ và Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam. Tuyên bố này không có kế hoạch hành động nhiều năm nào kèm theo.

Sau đó, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thông qua ba văn kiện bổ sung thỏa thuận “đối tác toàn diện” của họ: Tuyên bố về Tầm nhìn Hợp tác Quốc phòng (ngày 01 tháng 6 năm 2015) giữa các bộ trưởng quốc phòng của họ [54], Tuyên Bố về Tầm Nhìn Chung giữa Tổng thống Barack Obama và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 7 năm 2015), và Tuyên bố Chung (ngày 23 tháng 5 năm 2016) giữa Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Obama . Trong chuyến thăm của ông Obama tới Việt Nam tháng năm 2016 ông tuyên bố dỡ bỏ tất cả các hạn chế về việc bán vũ khí cho Việt Nam.

Khi thực hiện như là một tổng thể, mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện của Việt Nam đã giúp Việt Nam né xa sự cạnh tranh Trung-Mỹ và giúp Việt Nam các phương tiện cơ động giữa các cường quốc chủ yếu để bảo vệ nền độc lập và tự chủ của mình.

Phần 5: CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chính sách đối ngoại thúc đẩy hội nhập quốc tế của Việt Nam là lâu dài. Ví dụ, Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007 và được bầu làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-09. Năm 2011, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Mười Một ủng hộ Việt Nam “chủ động, hội nhập quốc tế năng động”.

Ngày 10 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Nghị quyết tuyên bố rằng “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là một định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [55]. Nghị quyết 22 nhấn mạnh sự cần thiết cho Việt Nam:

Đưa ra các cam kết quốc tế song song với việc chủ động và tích cực tham gia trong việc phát triển và sử dụng các quy tắc và thông lệ quốc tế và tham gia vào các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất các sáng kiến ​​và cơ chế hợp tác theo nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trong các cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên Thế Giới [56].

Sau khi Nghị quyết số 22 được ban hành Chính Phủ đã thông qua một kế hoạch hành động và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg. Chỉ thị này dẫn đến việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về Hội nhập quốc tế đứng đầu là Thủ tướng. Hai Ủy ban chỉ đạo liên ngành lớn đã được thiết lập, một cho hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng, một có trách nhiệm đối về hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa và xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Việt Nam là một thành viên nhiệt tình trong các cuộc đàm phán về Hiệp ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng trong Hiệp Định Đối Tác Kinh tế Toàn diện (RCEP) với các nước ASEAN. Việt Nam gần đây đã gia nhập Liên minh Âu Á bao gồm Armenia, Belarus, Kazakhstan và Nga.

Năm 2015, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ban hành một Sách xanh Ngoại giao để xem xét những nỗ lực chủ động hội nhập quốc tế trong năm qua của Việt Nam. Là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam được bầu vào Hội đồng Thống đốc của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (2013-15), Hội đồng Nhân quyền (2014-16), Ban điều hành của Tổ chức Liên Hợp Quốc cho Giáo dục, Khoa học và văn hóa hay UNESCO (2015-19), và Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc (2016-18). Việt Nam cũng đã công bố rằng họ sẽ là một ứng cử viên cho thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An nhiệm kỳ 2020-21.

Các trung tâm của hội nhập khu vực của Việt Nam là các nước ASEAN và các tổ chức đa phương mà ASEAN làm trung tâm. Việt Nam trở thành thành viên của Diễn đàn Khu vực ASEAN năm 1994 và là thành viên đầy đủ của ASEAN vào năm sau. Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), các Diễn đàn Hàng hải ASEAN (AMF), AMF mở rộng, Hội nghị Á-Âu (ASEM), và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Năm 2010 Việt Nam đã tổ chức cuộc họp khai mạc của Hội nghị ADMM-Plus. Việt Nam là nhà điều phối quan hệ ASEAN-Liên minh Châu Âu cho 2012-15 và hiện là điều phối viên quan hệ ASEAN-Ấn Độ (2015-18).

Ở cấp độ song phương Việt Nam đã ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với năm trong mười thành viên của ASEAN: Thái Lan, Indonesia, Singapore, Philippines và Malaysia. Sau cuộc bầu cử các lãnh đạo nhà nước mới vào tháng 5 năm 2016, Chủ tịch nước Trần Đại Quang thăm Brunei và Singapore.

Phần 6: GỢI Ý CHO HOA KỲ

Từ năm 1995 Việt Nam đã nổi lên như là một thành viên chủ chốt của ASEAN và cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều đã chia sẻ lợi ích trong việc tăng cường ASEAN là một tổ chức khu vực. Tương tự như vậy, cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều chia sẻ mối quan tâm về an ninh hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả quyền tự do hàng hải và hàng không. Cả hai cùng chia sẻ một chính sách mà tranh chấp lãnh thổ nên được giải quyết một cách hòa bình mà không có sự đe dọa sử dụng vũ lực trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ quan điểm tương tự về các vấn đề quốc tế như không phổ biến hạt nhân, chống chủ nghĩa cực đoan bạo lực, và giảm tác động của thay đổi khí hậu.

Cả Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ lợi ích chung trong sự ổn định và phát triển kinh tế của Việt Nam. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam hưởng thặng dư thương mại khổng lồ của Hoa Kỳ 30,9 tỷ $ (so với thâm hụt thương mại với Trung Quốc là 32,3 tỷ $). Việt Nam là một thành viên nhiệt tình trong đàm phán TPP, mục tiêu chính của chính sách tái cân bằng châu Á của Tổng thống Obama…

Mặc dù có nhiều lãnh vực có lợi ích chung, lợi ích cho Hoa Kỳ và cho Việt Nam lại không trùng khớp [57]. Ví dụ, Việt Nam muốn Hoa Kỳ chính thức chỉ định Việt Nam là một nền kinh tế thị trường để họ có thể tiếp cận được nhiều hơn với thị trường Mỹ. Hoa Kỳ đã không làm như vậy bởi vì họ quan ngại về vai trò đặc quyền của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Mỹ coi việc thúc đẩy giá trị dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo như những yếu tố củng cố sự ổn định chính trị và phát triển. Việt Nam, tuy nhiên, lại có những nghi ngờ rằng Hoa Kỳ đang tìm cách lật đổ hệ thống độc đảng của họ thông qua “diễn biến hòa bình.”

Ngay cả trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh, nơi mà Hoa Kỳ và các lợi ích chiến lược của Việt Nam ngày càng hội tụ trong những năm gần đây, mối quan tâm của họ cũng không giống nhau. Việt Nam tìm cách tận dụng quan hệ đối tác chiến lược với các nước lớn để thúc đẩy chính sách đối ngoại độc lập và tự chủ. Việt Nam nói chung đã hỗ trợ chính sách tái cân bằng hướng về châu Á-Thái Bình Dương của Tổng thống Obama. Quan chức cấp cao Việt chào đón sự hiện diện của Hải quân Hoa Kỳ ở Biển Đông miễn là nó đóng góp, theo quan điểm của Hà Nội, cho hòa bình và an ninh khu vực. Tuy nhiên, chính sách quốc phòng của Việt Nam “ba không” lại hạn chế mức độ mà họ sẽ hợp tác với Hoa Kỳ để hạn chế Trung Quốc.

Việt Nam và Hoa Kỳ đều cảnh giác với sự hợp tác Trung-Nga ở Châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam, tuy nhiên, có quan hệ tốt với Moscow trong khi Washington thì không. Tàu hải quân Nga đã được tiếp cận đặc biệt quân cảng tại Vịnh Cam Ranh, trong khi các cường quốc lớn khác chỉ được phép cập vào cảng quốc tế Cam Ranh và hiện đang bị giới hạn một tầu chỉ được thăm cảng hải quân một năm một lần. Năm 2015 chính sách quốc phòng “ba không” của Việt Nam đã bị đặt dưới sự căng thẳng khi máy bay tiếp nhiên liệu quân sự của Nga tại vịnh Cam Ranh tiếp dầu cho các máy bay ném bom “Bear” [của Nga] khi các máy bay này tiến hành các chuyến bay khiêu khích gần cơ sở quân sự của Hoa Kỳ trên Guam [58].

Quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai cho quan hệ song phương với chính phủ Hoa Kỳ tiếp theo. Điều này đã được minh họa bằng chuyến thăm của Đinh Thế Huynh đến Washington từ ngày 24 đến ngày 30 Tháng 10 năm 2016, theo lời mời của Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry [59]. Huynh là ủy viên thường trực của Ban Bí thư của đảng cộng sản Trung ương và là một ứng cử viên tiềm năng để trở thành Tổng Bí thư kế tiếp.

Huynh kêu gọi Hoa Kỳ “thúc đẩy hợp tác toàn diện để phát triển bằng cách tăng những lần thăm viếng ở tất cả các cấp, mở rộng các cơ chế tham vấn về các vấn đề cùng quan tâm và thúc đẩy hiệu quả các cơ chế hợp tác hiện có” [60]. Huynh đặc biệt kêu gọi tăng cường ” hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư “và tăng cường hợp tác ” khoa học, giáo dục, y tế, môi trường, kết nối cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo, và chống biến đổi khí hậu … liên kết quốc phòng-an ninh … trao đổi dân với dân, trong khi ưu tiên giải quyết hậu quả chiến tranh và viện trợ nhân đạo” [61].

Huynh lưu ý rằng Quốc hội Việt Nam đang chuẩn bị phê chuẩn Hiệp định TPP và kêu gọi Hoa Kỳ đẩy nhanh việc thông qua nó. Huynh cũng bày tỏ hy vọng rằng Hoa Kỳ “sẽ sớm công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nhiều hơn, và giảm các rào cản thương mại” [62]. Huỳnh khẳng định Việt Nam sẵn sàng ” làm việc với nước Mỹ và các nước có liên quan để thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN và xây dựng các cơ chế do ASEAN lãnh đạo để tạo thành một cấu trúc khu vực trong thế kỷ 21 ” [63]. Đáng chú ý Huynh hoan nghênh “vai trò tích cực của các nước trong và ngoài khu vực, trong đó có Mỹ, trong việc giữ hòa bình và ổn định ở biển Đông ” và kêu gọi Mỹ tiếp tục hợp tác với các nước trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương [64]. Cuối cùng, Huynh mời Tổng thống Mỹ mới tới thăm Việt Nam vào năm 2017 khi Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC.

Tóm lại, Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ một sự hội tụ về các lợi ích chiến lược nhưng những lợi ích lại không trùng khớp. Trong khi chính sách của Việt Nam đối với Hoa Kỳ có vẻ rõ ràng là chờ đến tổng thống Hoa Kỳ tiếp theo để hiểu rõ liệu sẽ có tính liên tục hay một sự thay đổi trong chính sách tái cân bằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Dịch giả Trần Bích Đăng gửi BVN

This entry was posted in Ngoại Giao. Bookmark the permalink.